Part 30

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 30(a)

NHẤT ĐĂNG ĐẠI SƯ


Hai người theo đường núi đi về phía trước, không bao lâu đã tới cuối đường, phía trước là một chiếc cầu đá rộng khoảng một thước bắc qua hai ngọn núi, mây mù bao phủ, nhìn không thấy đầu bên kia. Nếu ở dưới đất thì một con đường nhỏ rộng hơn thước chẳng đáng gì, nhưng chiếc cầu đá này thì bên dưới là vực sâu, đừng nói là đi lại, chỉ nhìn xuống một cái cũng không khỏi tim đập chân run. Hoàng Dung thở dài nói:

- Vị Đoàn Hoàng gia này ở ẩn kín đáo thật, dù ai có thù hận không đội trời chung với ông ta tới đây cũng đã bớt giận một nửa.

Quách Tĩnh nói:

- Tại sao người câu cá kia lại nói Ðoàn Hoàng gia không còn trên đời nữa? Thật khiến người ta không thể yên tâm.

Hoàng Dung nói:

- Chuyện đó cũng quả khiến người ta không sao đoán được xem dáng vẻ của y thì không giống như bịa đặt lại nói là sư phụ chúng ta từng chính mắt nhìn thấy Đoàn Hoàng gia chết.

Quách Tĩnh nói:

- Đã tới bước này thì chỉ còn tiến không còn lùi.

Rồi ngồi xổm xuống cõng Hoàng Dung lên, triển khai thuật khinh công đề tung bước lên cầu đá. Cầu đá lồi lõm không bằng phẳng lại thêm cả năm nằm giữa mây mù, trơn trượt dị thường, càng đi chậm càng dễ ngã. Quách Tĩnh đề khí rảo chân chạy mau, chạy được bảy tám trượng, Hoàng Dung kêu lên:

- Cẩn thận, phía trước gãy rồi.

Quách Tĩnh cũng đã thấy chiếc cầu đá đột nhiên gãy ở giữa, có một đoạn khuyết dài khoảng bảy tám thước, lúc ấy càng chạy mau, mượn lực vọt tới phi thân qua. Hoàng Dung trải qua nguy hiểm nhiều lần, đã sớm coi thường cái chết, cười nói:

- Tĩnh ca ca, ngươi bay không vững vàng bằng điêu nhi.

Đi một đoạn lại vọt qua một chỗ khuyết, qua bảy đoạn thì thấy phía núi đối diện có một khoảng đất rộng, chợt nghe tiếng đọc sách sang sảng, đã tới chỗ tận cùng của cầu đá, nhưng chỗ ấy lại có một đoạn khuyết cực dài, nhìn thấy cũng phải hơn một trượng, đầu bị khuyết có một thư sinh ngồi xếp bằng, tay cầm một quyển sách đang cao giọng đọc vang. Sau thư sinh kia lại có một đoạn cầu khuyết ngắn.

Quách Tĩnh chỉ đi chứ không chạy, vừa đứng lại đã cảm thấy không biết làm sao:

- Nhảy qua chỗ này vốn không khó, chỉ là người thư sinh kia ngồi chắn chỗ xung yếu, ngoài chỗ ấy thì không có chỗ nào đặt chân lấy đà được.

Lúc ấy bèn cao giọng nói:


- Vãn bối cầu kiến tôn sư, làm phiền đại thúc dẫn kiến.

Người thư sinh kia lắc đầu ngoẹo cổ đọc rất rành rọt dễ nghe, hoàn toàn không nghe thấy Quách Tĩnh nói. Quách Tĩnh đề khí cao giọng nói lần nữa, người thư sinh kia vẫn cứ lờ đi không nghe. Quách Tĩnh hạ giọng nói:

- Dung nhi, tính sao bây giờ?

Hoàng Dung nhướng mày không đáp. Nàng vừa thấy thế ngồi của người thư sinh đã biết chuyện này hoàn toàn hết cách, trên chiếc cầu đá rộng khoảng một thước mà động thủ là lập tức phân sống chết, cho dù Quách Tĩnh thắng được nhưng chuyến này là tới nhờ người ta, làm sao có thể động thủ đả thương họ?

Thấy người thư sinh kia hoàn toàn không đếm xỉa gì tới bất giác ngấm ngầm tức giận mà nghe đoạn sách y đọc chẳng qua chỉ là một bộ Luận ngữ rất bình thường, chỉ nghe y đọc:

- Cuối mùa xuân, áo xuân đã may xong, thành niên năm sáu người, đồng tử sáu bảy người, tắm ở sông Nghi, hóng gió ở Vũ Vu, ngâm vịnh mà về:

Ðọc rất hào hứng, đọc một lần lại thở dài khen ngợi mấy lần, quả đúng như đang giữa gió xuân chở ca chở múa, văn vẻ vô cùng.

Hoàng Dung nghĩ thầm:

- Muốn y mở miệng chỉ có cách lên tiếng nói khích. Liền cười nhạt một tiếng, nói:

- Cho dù đọc Luận ngữ hàng ngàn lần mà không hiểu được lời nhỏ nghĩa lớn của phu tử cũng uổng công thôi.

Người thư sinh ngạc nhiên ngừng đọc, ngẩng lên nói:

- Thế nào là lời nhỏ nghĩa lớn, xin được thỉnh giáo!

Hoàng Dung quan sát thấy y khoảng bốn mươi tuổi, đầu đội khăn tiêu dao, tay cầm quạt tập điệp, dưới cằm có một chòm râu dài đen nhánh, đúng là dáng vẻ một bậc thạc nho túc học, bèn cười nhạt nói:

- Các hạ biết đệ tử Khổng môn có tất cả bao nhiêu người không? Người thư sinh cười nói:

- Thế thì có gì khó? Đệ tử Khổng môn có ba ngàn người, những kẻ thành đạt có bảy mươi hai người. Hoàng Dung hỏi:

- Trong bảy mươi hai người ấy có người già có người trẻ, ngươi biết trong đó có bao nhiêu người thành niên, bao nhiêu người là đồng tử không?

Người thư sinh ngạc nhiên nói:

- Trong Luận ngữ chưa từng nói tới, kinh truyện cũng không ghi chép. Hoàng Dung nói:


- Ta nói ngươi không hiểu rõ lời nhỏ ý lớn trong kinh sách quả không sai mà. Mới rồi rõ ràng ngươi đọc Thành niên năm sáu người, đồng tử sáu bảy người. Năm sáu ba mươi, thành niên là ba mươi người, sáu bảy bốn hai, đồng tử là bốn mươi hai người, cộng lại thì không nhiều không ít vừa đúng bảy mươi hai người. Xem loại người như ngươi đọc sách mà không suy nghĩ, hà, thật đáng tiếc, thật đáng tiếc.

Thư sinh kia nghe nàng giải thích kinh sách khiên cưỡng như thế, bất giác nghẹn cổ cười ngất, nhưng cũng thầm phục nàng thông minh cơ trí, cười nói:

- Tiểu cô nương quả nhiên đầy bụng thi thư, bội phục bội phục. Các ngươi muốn gặp gia sư để làm gì vậy?

Hoàng Dung nghĩ thầm:

- Nếu nói tới để xin chữa bệnh nhất định y sẽ tìm đủ cách làm khó dễ, nhưng câu này lại không thể không trả lời, được rồi, y đang đọc Luận ngữ, mình cứ vớ vài câu của Khổng phu tử hỏi vặn y. Lúc ấy bèn nói:

- Bậc thánh nhân, ta không thể được gặp vậy. Được gặp bậc quân tử, có thể vậy. Có bạn từ phương xa tới, chẳng cũng vui sao?

Thư sinh ngẩng đầu cười lớn hồi lâu mới im, nói:

- Hay lắm, hay lắm, ta đưa ra ba câu hỏi thử tài ngươi, nếu trả lời được thì sẽ dẫn ngươi đi gặp sư phụ ta, nếu có một câu không trả lời được thì mời hai vị theo đường cũ trở về.

Hoàng Dung nói:

- Ái chà, ta chưa từng đọc nhiều sách vở, câu hỏi khó quá thì ta không trả lời được đâu. Thư sinh cười nói:

- Không khó, không khó. Ở đây có một bài thơ chiết tự bốn chữ nói về lai lịch xuất thân của tại hạ, ngươi đoán thử xem.

Hoàng Dung nói:

- Được lắm, đoán sai cũng thú, xin đọc đi? Thư sinh vuốt râu ngâm:

- Lục kinh uẩn tạ hung trung cửu, Nhất kiếm thập niên ma tại thủ... (Sáu kinh học thuộc khi còn nhỏ, Một kiếm mười năm tay vẫn giữ... ). Hoàng Dung lè lưỡi nói:

- Văn võ toàn tài, quả là không kém! Thư sinh kia cười một tiếng ngâm tiếp:

- Hạnh hoa đầu thượng nhất chi hoành, Khủng tiết thiên cơ mạc lộ khẩu. Nhất điểm khẩn khẩn đại như đẩu, Yêm khước bán sàng vô sớ hữu. Hoàn danh trực đắc quải quan quy, Bản lai diện mục quân tri phủ?


(Trên đầu hoa hạnh một cành ngang, Giữ kín thiên cơ không nói lộ: Một chấm rõ ràng lớn như đấu, Trống vắng nửa giường luống than thở. Thành danh bỏ mũ cáo quan về, Lai lịch ra sao người đoán thử?).

Hoàng Dung nghĩ thầm:

- Thành danh bỏ mũ cáo quan về Lai lịch ra sao người đoán thử. Xem dáng vẻ của ngươi thì ắt là đại thần trong triều của Đoàn Hoàng gia năm xưa, theo ông ta treo mũ từ quan rời triều về ẩn nơi rừng núi, có gì khó đoán.

Bèn nói:

- Chữ Lục thêm chữ Nhất và chữ Thập là chữ Tân. Chữ Hạnh trên thêm một nét ngang, dưới bỏ chữ Khẩu là chữ Vị. Nửa chữ Sàng thêm chữ Đại và một chấm là chữ Trạng. Chữ Hoàn bỏ cái mũ ở trên là chữ Nguyên. Tân vị trạng nguyên, thất kính thất kính, té ra là Trạng nguyên gia khoa Tân vị.

Thư sinh chợt sửng sốt, vốn nghĩ lối đố chữ ấy rất khó đoán, cho dù đoán đúng cũng phải mất nửa ngày, mà trên cái cầu hẹp thết này, thiếu niên kia võ công có cao cường hơn e cũng khó đứng được lâu, muốn khiến hai người biết khó mà lai, ngoan ngoãn trở về, nào ngờ Hoàng Dung lại như không nghĩ ngợi gì, thuận miệng trả lời bất giác kinh ngạc vô cùng, nghĩ thầm cô gái nhỏ này vốn thông minh tuyệt đỉnh, phải ra câu hỏi thật khó để làm khó, nhìn quanh thấy ở ven núi có một rặng cau, cành lá đong đưa theo gió như vung quạt múa, y là tài trạng nguyên, tức cảnh sinh tình, lúc ấy phe phẩy chiếc quạt nói:

- Ta có một vế đối, mời tiểu cô nương đối thử. Hoàng Dung nói:

- Làm câu đối không thú bằng đoán câu đố, nhưng thôi được, nếu ta không đối xem ra ngươi cũng không cho bọn ta qua, ngươi ra vế đối đi.

Thư sinh vung quạt chỉ vào rặng cây cọ, nói:

- Gió thổi cau lay, Phật ngàn tay khua quạt tập điệp.

Vế trên của câu đối là tức cảnh, lại ngầm có ý đề cao mình. Hoàng Dung nghĩ thầm:

- Nếu mình chỉ đối bằng sự vật mà không mang nghĩa song quan thì không thắng được.

Bèn đưa mắt nhìn quanh, chợt thấy trong khoảng đất phẳng trước mặt có một ngôi chùa nhỏ, phía trước có một ao sen, lúc ấy sắp hết tháng bảy, trên núi lạnh sớm, sen trong ao đã héo úa quá nửa, chợt động tâm cười nói:

- Câu đối thì có, chỉ sợ đắc tội với đại thúc nên không tiện nói ra. Thư sinh nói:

- Cứ nói không sao. Hoàng Dung nói:


- Ngươi không được giận đấy. Thư sinh nói:

- Tự nhiên là không giận.

Hoàng Dung chỉ vào chiếc khăn tiêu dao trên đầu y nói:

- Được, câu đối của ta là sương sa sen héo, quỷ một cẳng đội khăn tiêu dao. Câu đối vừa nói ra, thư sinh hô hô cười rộ, nói:

- Hay lắm, hay lắm, không những đối rất chỉnh mà còn rất mẫn tiệp.

Quách Tĩnh thấy trên cuống sen mang một chiếc lá héo úa, quả nhiên rất giống con quỷ một chân đội chiếc khăn tiêu dao, cũng không kìm được bật cười. Hoàng Dung cười nói:

- Đừng cười, đừng cười, ngã xuống một cái là chúng ta thành hai con quỷ không đội khăn tiêu dao đấy.

Thư sinh nghĩ thầm:

- Câu đối tầm thường nhất định không làm khó được cô ta, mình cứ ra câu đối thật khó.

Đột nhiên nghĩ tới lúc trẻ đi học, thầy dạy từng nói ra một câu đối rất khó, mấy mươi năm nay không có ai đối được thật chỉnh, biết đâu có thể làm khó nàng một phen, lúc ấy liền nói:

- Ta còn có một vế đối xin tiểu cô nương đối: Cầm sắt tỳ bà, tám đại vương thảy bày diện mạo. Hoàng Dung nghe xong, trong lòng cả mừng:

- Trong bốn chữ cầm sắt tỳ bà có tất cả tám chữ vương, vốn là vô cùng khó đối, chỉ tiếc đây là một câu đối cũ chứ không phải do ngươi nghĩ ra. Năm trước cha trên đảo Đào Hoa nhàn rỗi vô sự đã đối qua rồi. Mình cứ làm ra vẻ khó khăn, để y đợi một lúc.

Liền cau mày làm ra vẻ nhăn nhó khổ sở. Thư sinh thấy làm khó được nàng, vô cùng đắc ý nhưng chỉ sợ Hoàng Dung hỏi ngược lại y, bèn nói trước:

- Câu đối này vốn rất khó, ta cũng không đối được thật chỉnh. Có điều chúng ta đã nói từ đầu, nếu tiểu cô nương không đối lại được, thì chỉ có cách mời về thôi.

Hoàng Dung cười nói:

- Nếu nói phải đối vế đối này thì có gì là khó, chỉ sợ vế mới rồi đắc tội với đại thúc, bây giờ vế này lại đắc tội với cả bốn vị Ngư Tiều Canh Độc nên không nói ra được.

Thư sinh không tin, nghĩ thầm:

- Ngươi mà đối được đã là thiên nan vạn nan, há lại có thể nhân dịp này chọc ghẹo cả bốn anh em ta à?

Liền nói:

- Chỉ cần đối cho chỉnh, chuyện cười cợt có gì đáng ngại? Hoàng Dung cười nói:

- Nếu đã như thế thì ta xin lỗi trước, xin đối lại thế này: Ly mỵ võng lượng, bốn tiểu quỷ đều có ruột


gan.

Thư sinh cả kinh đứng bật dậy vung tay áo một cái vái Hoàng Dung một vái, nói:

- Tại hạ bái phục.

Hoàng Dung đáp lễ, cười nói:

- Nếu không phải các vị đều dùng tâm cơ cản trở bọn ta lên núi thì vế đối này quả thật cũng khó mà nghĩ ra.

Nguyên năm xưa lúc Hoàng Dược Sư làm vế đối này thì Trần Huyền Phong, Khúc Linh Phong, Lục Thừa Phong, Mã Mặc Phong bốn đệ tử đang đứng hầu bên cạnh, y bèn lấy bốn chữ ấy để chọc ghẹo bốn người. Lúc ấy Hoàng Dung còn chưa ra đời, về sau nghe cha kể lại, hôm nay lại dùng đó để chỉ bốn người Ngư Tiều Canh Độc.

Thư sinh hừ một tiếng, quay người nhảy qua chỗ khuyết của chiếc cầu, nói:

- Mời.

Quách Tĩnh đứng yên nghe hai người so tài văn chương, chỉ sợ có câu nào Hoàng Dung không đáp được thì công lao trước đây kể như bỏ hết, nhìn thấy người thư sinh nhường đường, trong lòng cả mừng, lập tức đề khí nhảy tới, điểm chân xuống chỗ người thư sinh vừa ngồi, lại nhảy qua chỗ khuyết cuối cùng.

Thư sinh thấy y cõng Hoàng Dung vượt chỗ hiểm như đi trên đất bằng cũng thầm thán phục:

- Mình tự phụ là văn võ song toàn, nhưng thật ra văn thì không bằng tiểu cô nương này, võ thì không bằng thiếu niên này, xấu hổ ơi là xấu hổ.

Bên nghiêng mắt nhìn lại Hoàng Dung lần nữa, chỉ thấy nàng nghênh ngang đắc ý, nghĩ cô gái nhỏ này thắng được một vị trạng nguyên túc học nên không giấu được sự đắc ý nghĩ thầm:

- Mình cứ chọc ghẹo một phen để cô ta đừng đắc ý quá. Lúc ấy bèn nói:

- Cô nương văn tài tuy cao, nhưng hành động thì có chỗ kém. Hoàng Dung nói:

- Xin thỉnh giáo. Người thư sinh nói:

- Trong sách Mạnh tử có câu: Nam nữ thụ thụ bất thân, đó là lễ vậy. Xem ra cô nương là một vị khuê nữ, lại hoàn toàn không phải là vợ chồng với tiểu ca này, tại sao lại để y cõng? Mạnh phu tử chỉ nói khi chị dâu chết đuối thì em chồng mới có thể nắm tay kéo lên. Cô nương đã không rơi xuống nước, lại không phải là chị dâu của tiểu ca đây mà ôm ôm ấp ấp, quả thật rất trái với lễ giáo.

Hoàng Dung nghĩ thầm:

- Hừ, Tĩnh ca ca có tốt với mình hơn, người khác cũng biết y không phải là chồng mình. Lục Thừa Phong Lục sư ca nói thế, vị trạng nguyên này lại cũng nói thế .


Lập tức chẩu môi một cái nói:

- Mạnh phu tử rất thích ăn nói bậy bạ, lời nói của y làm sao tin được. Thư sinh tức giận nói:

- Mạnh phu tử là bậc đại thánh đại hiền, tại sao lại không tin được lời ông? Hoàng Dung cười hề hề nói:

- Khất cái làm sao hai vợ được? Láng giềng liệu có mấy con gà? Đương thời thiên tử nhà Chu đó, Tề Ngụy sao lòng vẫn thiết tha.

Thư sinh càng nghĩ càng thấy đúng, ngẩn ra hồi lâu không đáp được.

Nguyên bài thơ ấy là của Hoàng Dược Sư làm, y chê bai Thang Vũ, coi thường Chu Khổng, đối với những lời thánh hiền truyền lại lúc rảnh rỗi lại bài bác mỉa mai, từng làm không ít thơ ca từ phú chế nhạo Khổng Mạnh. Sách Mạnh tử có chuyện nói người nước Tề có hai vợ mà đi xin cơm thừa canh cặn, lại nói có người mỗi ngày ăn cắp một con gà của người láng giềng, y bèn nói hai chuyện ấy là để lừa người. Hai câu cuối của bài thơ trên là nói vào thời Chiến quốc thiên tử nhà Chu vẫn còn, tại sao Mạnh tử không phụ tá vương thất mà lại đi gặp Lương Huệ vương, Tề Tuyên vương để cầu làm quan? Chuyện đó không khỏi có chỗ trái hẳn với đạo lý thánh hiền.

Thư sinh nghĩ thầm:

- Chuyện người nước Tề và chuyên trộm gà nguyên là ví dụ, không đáng để nói, nhưng hai câu sau cùng chỉ sợ dựng Mạnh phu tử dưới đất lên thì ông cũng khó mà tự biện hộ.

Lại nhìn Hoàng Dung một cái, nghĩ thầm:

- Còn nhỏ mà sao đã khôn ngoan quỷ quái như thế?

Lúc ấy không nói gì nữa, đưa hai người đi thẳng vào. Lúc đi qua ao sen, nhìn thấy lá sen dưới hồ, không kìm được lại nhìn Hoàng Dung một cái. Hoàng Dung phì cười một tiếng, quay đầu qua chỗ khác.

Thư sinh kia dẫn hai người vào chùa, mời hai người ngồi ở phòng phía đông, tiểu sa di bưng trà lên. Thư sinh nói:

- Hai vị tạm đợi một lúc, đợi ta vào bẩm với gia sư. Quách Tĩnh nói:

- Khoan đã? Vị đại thúc cày ruộng kia đứng ở mép núi đỡ tảng đá lớn, không thoát thân được, xin đại thúc cứu y trước đã.

Thư sinh kia giật nảy mình, phi thân vọt đi. Hoàng Dung nói:

- Có thể mở cái túi màu vàng ra rồi. Quách Tĩnh nói:

- À, nếu cô không nói thì ta đã quên mất:


Vội lấy cái túi vàng xé ra, chỉ thấy trong có một tờ giấy không có chữ mà vẽ một bức tranh, trên tranh vẽ một người nước Thiên Trúc ăn mặc như lối vương giả đang dùng dao cắt thịt trên ngực mình, đã cắt hết thịt trên thân thể, máu tươi ròng ròng. Trước mặt y là một cái cân, một bên đĩa cân có một con bồ câu đậu, bên kia thì chất một đống thịt của y cắt ra, con bồ câu tuy nhỏ nhưng nặng hơn đống thịt rất nhiều. Cạnh cái cân có một chim ưng đứng, dáng vẻ hung ác. Bút pháp trên bức tranh này rất kém cỏi, Hoàng Dung nghĩ thầm:

- Bà Anh Cô này vốn chưa từng học hội họa, chữ viết cũng không kém chứ bức tranh này thì như trẻ con bôi bác ra.

Nhìn suốt nửa ngày chẳng hiểu ý tứ trong bức tranh là thế nào. Quách Tĩnh thấy nàng càng đoán càng không ra thì mình chẳng cần gì phải hao tốn tâm tư, bèn nhặt bức tranh lên cuốn lại, nắm trong bàn tay.

Chợt nghe trên điện có tiếng bước chân, người nông phu tức giận thở hồng hộc, vịn vai thư sinh từ ngoài bước vào trong, chắc y bị tảng đá lớn đè quá lâu, mệt tới mức gân cốt rã rời. Khoảng sau thời gian uống cạn một chén trà, một chú tiểu sa di chạy vào, hai tay chắp lại làm lễ, nói:

- Hai vị từ xa tới đây, không biết có việc gì? Quách Tĩnh nói:

- Đặc biệt tới cầu kiến Đoàn Hoàng gia, xin thông báo giùm cho. Chú tiểu sa di chắp tay nói:

- Đoàn Hoàng gia đã sớm không còn trên đời, làm hai vị phải vất vả một chuyến uổng công. Xin mời dùng cơm chay. Rồi tiểu tăng sẽ cung kính tiễn chân xuống núi.

Quách Tĩnh vô cùng thất vọng, nghĩ thầm trăm cay ngàn đắng mới tới đây được mà chỉ được nghe một câu trả lời như thế, vậy thì làm sao là hay. Nhưng Hoàng Dung nhìn thấy chùa miếu đã đoán được ba phần, lúc ấy nhìn thần sắc của chú tiểu sa di lại đoán được năm sáu phần, bèn đón lấy bức tranh trong tay Quách Tĩnh nói:

- Đệ tử là Quách Tĩnh, Hoàng Dung cầu kiến. Xin tôn sư nghĩ tới tình nghĩa cố nhân với Cửu chỉ thần cái và Hoàng đảo chủ đảo Đào Hoa mà cho gặp mặt một lần. Tờ giấy này xin làm phiền trình lại với tôn sư.

Chú tiểu sa di đón lấy bức tranh, không dám mở ra xem, chắp tay vái một vái rồi quay người vào trong.

Lần này không bao lâu y đã trở ra, cúi đầu chắp tay nói:

- Kính mời hai vị.

Quách Tĩnh cả mừng, đỡ Hoàng Dung theo y vào trong. Ngôi chùa này tuy nhìn thì thấy nhỏ nhưng bên trong lại rất sâu. Ba người đi qua một đường nhỏ lát đá xanh, lại xuyên qua một khu rừng trúc, chỉ thấy lá xanh um tùm, vô cùng u nhã, khiến người ta quên hết mọi nỗi phiền muộn. Trong rừng


trúc có ba gian thạch thất, chú tiểu sa di nhè nhẹ đẩy cửa phòng, đứng tránh qua một bên, khom lưng mời hai người bước vào.

Quách Tĩnh thấy chú tiểu sa di cung kính có lễ rất có hảo cảm với y, nhìn y cười khẽ tỏ ý cảm tạ rồi cùng Hoàng Dung sóng vai bước vào, chỉ thấy trong phòng có một lò hương đặt trên bàn nhỏ, trên

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net