Kiến thức nền tảng - Chương 11

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CHƯƠNG 11 - QUY LUẬT SỐ 3: KHIẾN VIỆC ĐÓ TRỞ NÊN DỄ DÀNG ĐI CHẬM, nhưng KHÔNG BAO GIỜ LÙI BƯỚC

Ngay trong buổi học đầu tiên của cả lớp nhiếp ảnh bằng máy ảnh phim, Jerry Uelsmann, một giáo sư giảng dạy tại đại học Florida đã chia các sinh viên của mình thành hai nhóm.Theo như ông giải thích, những sinh viên ở phía bên trái của lớp học sẽ thuộc nhóm "số lượng". Họ sẽ được cho điểm chỉ dựa trên số lượng tác phẩm mà họ tạo ra. Vào buổi cuối cùng của lớp học, ông sẽ tính ra số lượng các bức ảnh của từng sinh viên. Một trăm bức ảnh sẽ được điểm A, chín mươi được điểm B, tám mươi điểm C, và cứ tiếp tục như vậy.Trong khi đó những sinh viên ở phía bên phải của lớp học sẽ thuộc nhóm "chất lượng".

Họ sẽ được cho điểm chỉ dựa trên mức độ xuất sắc của những tác phẩm họ tạo ra. Họ chỉ cần sáng tạo ra được một bức ảnh trong suốt cả học kỳ, nhưng để đạt được điểm A, đó gần như phải là một bức ảnh hoàn hảo.Vào cuối học kỳ, ông đã rất ngạc nhiên khi nhận ra rằng tất cả những bức ảnh đẹp nhất đều của nhóm "số lượng". Trong cả học kỳ, những sinh viên này đã bận rộn với việc chụp ảnh, thử nghiệm những tác phẩm và ánh sáng, kiểm tra vô số các phương pháp trong phòng tối, và học được từ những sai lầm của họ.

Trong quá trình sáng tạo ra hàng trăm tấm ảnh, họ đã mài dũa kỹ năng của mình. Trong khi đó, nhóm "chất lượng" chỉ ngồi một chỗ nghiên cứu về sự hoàn hảo. Cuối cùng họ chẳng có gì để chứng minh cho những nỗ lực của mình ngoài những lý thuyết không được chứng thực và một bức ảnh xoàng. [*Câu chuyện tương tự cũng được đề cập trong cuốn sách Art & Fear của David Bayles và Ted Orland. Tôi đã xin phép tác giả được trích dẫn câu truyện trong cuốn sách này] Chúng ta rất dễ bị sa lầy vào việc cố gắng tìm ra một kế hoạch tối ưu nhất cho việc thay đổi: cách nhanh nhất để giảm cân, chương trình tốt nhất để tạo cơ, ý tưởng tuyệt nhất cho một nghề tay trái [*Từ gốc: a side hustle].

Chúng ta tập trung vào việc hoạch định cách tiếp cận tối ưu mà lại quên mất chúng ta chưa bao giờ nghĩ tới việc hành động. Như Voltare đã từng viết, "Cái tốt nhất là kẻ thù của cái tốt".Điều tôi muốn nói ở đây là sự khác biệt giữa trạng thái chuyển động [being in motion] và trạng thái hành động [taking action]. Hai cụm từ nghe thì có vẻ tương đồng nhưng thực sự chúng lại không giống nhau. Khi bạn đang ở trong trạng thái chuyển động là bạn đang lên kế hoạch và hoạch định chiến lược và học hỏi. Tất cả đều là những việc có ích, nhưng chúng không tạo ra kết quả. Mặt khác, hành động là một loại hành vi sẽ mang lại kết quả. Nếu tôi đề ra hai mươi ý tưởng về những chủ đề tôi muốn viết, đó là trạng thái chuyển động. Nếu tôi thực sự ngồi vào bàn và viết một bài, đó là hành động. Nếu tôi tìm kiếm một kế hoạch ăn kiêng khá khẩm hơn và đọc một vài cuốn sách về đề tài này, đó là trạng thái chuyển động.

Nếu tôi thực sự ăn một bữa ăn lành mạnh, đó là hành động. Trạng thái chuyển động thường mang lại lợi ích, nhưng tự thân nó sẽ không bao giờ đem lại kết quả. Cho dù bạn có trò chuyện với huấn luyện viên cá nhân bao nhiêu lần đi nữa thì việc này cũng không bao giờ khiến bạn trở nên thon thả được. Chỉ có hành động luyện tập mới đem lại kết quả mà bạn mong muốn đạt được. Nếu trạng thái chuyển động không đem lại kết quả, tại sao chúng ta phải thực hiện bước này? Có đôi lúc chúng ta thực hiện các bước này bởi vì chúng ta thực sự cần lên kế hoạch hoặc học hỏi nhiều hơn.

Và có còn hơn không, chúng ta thực hiện các việc này bởi vì trạng thái chuyển động cho phép chúng ta cảm thấy chúng ta đang trong tiến trình thực hiện mà không phải chịu rủi ro thất bại nào. Không dễ chịu chút nào khi thất bại hay bị đám đông đánh giá, vì vậy chúng ta thường có xu hướng tránh né những tình huống mà hai việc trên có khả năng xảy ra. Và đây cũng chính là hai lí do chính lí giải tại sao bạn thích trạng thái chuyển động hơn là việc hành động: bạn mong muốn trì hoãn thất bại.

Thật là dễ dàng ở trong trạng thái chuyển động và thuyết phục bản thân rằng bạn sẽ tiếp tục tiến trình thực hiện. Bạn nghĩ rằng, "Tôi sắp có cuộc hẹn với bốn khách hàng tiềm năng. Việc này rất tốt. Chúng tôi đang đi đúng hướng." Hoặc, "Tôi đã nghĩ ra một vài ý tưởng cho cuốn sách mà tôi định viết. Đây là lúc kết hợp chúng lại với nhau."

Trạng thái chuyển động khiến bạn cảm thấy như thể bạn đã đạt được mọi việc rồi. Nhưng thực tế bạn mới chỉ chuẩn bị để đạt được mọi việc thôi. Khi sự chuẩn bị trở thành một dạng của sự trì hoãn, bạn cần thay đổi vài điều. Bạn không mong muốn đó chỉ ở dạng kế hoạch đơn thuần. Điều bạn mong muốn là thực hiện. Nếu bạn muốn làm thuần thục một thói quen, chìa khóa là bắt đầu bằng việc làm đi làm lại, không phải là sự hoàn hảo. Bạn không cần phải vạch ra mọi khía cạnh của thói quen mới. Bạn chỉ cần thực hiện việc đó. Đây chính là nguyên tắc đầu tiên của Qui luật thứ 3: bạn chỉ cần làm đi làm lại.

CẦN BAO LÂU ĐỂ THẬT SỰ HÌNH THÀNH MỘT THÓI QUEN MỚI?

Việc hình thành thói quen là một tiến trình mà qua đó một hành vi dần dần trở nên tự động hơn thông qua việc làm đi làm lại. Bạn lặp lại một hành động càng nhiều, cấu trúc não bộ của bạn thay đổi càng lớn trong việc thực hiện hành vi đó một cách hiệu quả hơn. Những nhà thần kinh học gọi đó là tiềm năng dài hạn, là sự tăng cường kết nối giữa các nơ ron thần kinh trong não bộ dựa trên những khuôn mẫu hành động hiện tại. Mỗi một lần lặp lại, tín hiệu kết nối giữa các tế báo lại tăng lên và sự kết nối của các nơron được thắt chặt hơn. Việc này được đề cập đến bởi nhà thần kinh học Donald Hebb vào năm 1949, hiện tượng này còn được biết tới với tên gọi định luật Hebb: "Neurons that fire together wire together."

Việc làm đi làm lại một thói quen dẫn tới sự thay đổi rõ ràng về mặt thể chất trong não bộ. Ở những nhạc công, các hoạt động thể chất như gảy đàn guitar hay kéo đàn vĩ cầm kích thích tiểu não lớn hơn so với những người bình thường. Còn ở những nhà toán học, lượng chất xám tăng trong tiểu thùy đỉnh dưới, thứ đóng vai trò quan trọng trong việc tính toán. Kích cỡ của nó liên quan trực tiếp tới lượng thời gian dành cho toán học; các nhà toán học càng cao tuổi, càng nhiều kinh nghiệm thì lượng chất xám càng lớn. Khi các nhà khoa học phân tích não bộ của các tài xế taxi tại London, họ đã phát hiện ra rằng vùng hồi hải mã - một khu vực trong não bộ có liên quan tới ký ức về không gian - lớn hơn đáng kể so với những người bình thường. Thú vị hơn, vùng hồi hải mã sẽ giảm kích cỡ khi người lái xe về hưu.

Giống như cơ bắp trên cơ thể chúng ta có phản ứng với việc luyện tập tăng/giảm cân thường xuyên, những vùng cụ thể trong não bộ sẽ thích nghi khi chúng được sử dụng đến và teo nhỏ khi ít được sử dụng. Đương nhiên tầm quan trọng của việc làm đi làm lại trong việc thiết lập thói quen được ghi nhận từ trước đó rất lâu trước khi các nhà khoa học bắt đầu nghiên cứu. Năm 1860 nhà triết học người Anh George H. Lewes đã viết, "Mọi người đều cảm thấy khó khăn khi học một ngoại ngữ mới, chơi một loại nhạc cụ, hoặc thực hiện một việc gì đó mới bởi vì kênh kết nối các cảm giác vẫn chưa được hình thành; nhưng sớm thôi việc làm đi làm lại thường xuyên sẽ tạo một lối đi và cảm giác khó khăn sẽ biến mất; hành động sẽ mang tính tự động và được thực hiện mà không cần phải suy nghĩ." Về mặt cảm xúc lẫn những chứng cứ khoa học đều nhất trí rằng: việc lặp đi lặp lại là một dạng thức thay đổi.

Mỗi lần bạn thực hiện lại một hành động, bạn đang kích hoạt một vòng tuần hoàn thần kinh cụ thể liên quan tới thói quen đó. Điều này có nghĩa rằng chỉ đơn giản là lặp đi lặp lại là một trong những bước quan trọng bạn có thể mã hóa một thói quen mới. Đây cũng chính là lý do tại sao những sinh viên chụp hàng nghìn bức ảnh lại cải thiện được kỹ năng của họ trong khi những sinh viên chỉ có thuần mỗi lý thuyết về bức ảnh hoàn hảo thì lại không cải thiện được gì. Một nhóm thực hành chủ động , nhóm khác học/tiếp thu kiến thức bị động.

Một nhóm hành động, nhóm kia trong trạng thái chuyển động. Tất cả các thói quen đều tuân theo một quỹ đạo chung từ việc nỗ lực thực hành tới hành động tự giác, một quá trình mang tính tự động. Tính tự động là khả năng thực hiện một hành vi mà không cần phải suy nghĩ thực hiện từng bước như thế nào, việc này xảy ra khi phần tâm trí vô thức nắm quyền kiểm soát. Quá trình này được minh hoạ như trong hình bên dưới đây:

Hình ảnh 11: Tại điểm bắt đầu (điểm A), cần nhiều nỗ lực và tập trung để thực hiện một thói quen. Sau nhiều lần làm lại (điểm B), việc thực hiện nó trở nên dễ dàng hơn, nhưng vẫn cần phải lưu tâm khi thực hiện. Khi thực hành đủ lâu (điểm C), thói quen mang tính tự động và làm mà không cần phải suy nghĩ. Theo biểu đồ này - đường thói quen - một hành động có thể được thực thi cần ít hay nhiều suy nghĩ. Một thói quen mới được hình thành. Ở trang tiếp theo, bạn sẽ thấy điều gì xảy ra khi các nhà nghiên cứu theo dõi các mức độ tự động của một thói quen thực tế như đi bộ mười phút mỗi ngày. Hình dáng của những biểu đồ này, cái được các nhà khoa học gọi tên là những đường cong học tập (learning curves), tiết lộ một sự thật quan trọng về việc thay đổi hành vi: việc hình thành thói quen dựa trên tần suất chứ không phải thời gian.

Hình ảnh 12: Biểu đồ này thể hiện việc một người đang xây dựng thói quen đi bộ mười phút sau bữa sáng mỗi ngày. Hãy chú ý tới mức độ thực hiện tăng dần, đó chính là tính tự động, cho tới khi việc thực hiện hành động trở nên dễ dàng và tự động nhất có thể. Một trong những câu hỏi phổ biến nhất mà tôi nhận được là, "Mất bao lâu để hình thành một thói quen mới?". Nhưng mọi người nên hỏi như thế này, "Thực hiện bao nhiêu lần để hình thành một thói quen mới?". Câu hỏi đó có nghĩa là cần thực hiện bao nhiêu lần để biến một thói quen trở nên tự động? Chẳng có phép màu nào trong việc theo thời gian thói quen được hình thành. Chẳng có vấn đề gì khi mất 21 ngày hay 31 ngày hay 300 ngày. Điều đáng quan tâm ở đây là tỷ lệ bạn thực hiện thói quen. Bạn có thể làm việc đó 2 lần trong 30 ngày, hoặc 200 lần.

Chính tần suất thực hiện đem lại điều khác biệt. Những thói quen hiện tại của bạn đã được nội hiện hoá nhờ việc lặp đi lặp lại hàng trăm lần, hoặc không thì hàng nghìn lần. Thói quen mới cũng cần tần suất thực hiện ở mức như vậy. Bạn cần xâu chuỗi đủ những nỗ lực thành công lại với nhau cho tới khi hành động đó ghi dấu ấn chắc chắn vào tâm trí bạn và bạn vượt qua được Đường thói quen. Trong thực tiễn, không cần phải lưu tâm tới việc mất bao lâu để một thói quen trở nên tự động. Điều bạn nên lưu ý là bạn cần phải hành động để tiến trình diễn ra. Cho dù một hành động mang tính tự động cũng không có gì quan trọng.Để xây dựng một thói quen bạn cần phải thực hành. Và cách thức hiệu quả nhất để thực hành là bám chặt theo Quy luật số 3 trong thay đổi hành vi: hãy khiến việc đó trở nên dễ dàng. Những chương tiếp theo sẽ nêu ra cho bạn cách thức thực hiện một cách cụ thể.

Tóm tắt chương

- Qui luật số 3 trong thay đổi hành vi: hãy khiến việc đó trở nên dễ dàng.

- Cách học hiệu quả nhất là thực hành, chứ không phải là ngồi lên kế hoạch.

- Tập trung vào hành động, chứ không phải là trạng thái chuyển động.

- Việc hình thành thói quen là một tiến trình mà qua đó một hành vi dần dần mang tính tự động hơn thông qua việc lặp đi lặp lại.

- Thời lượng thời gian bạn dành để thực hiện thói quen không quan trọng bằng số lần bạn thực hiện việc đó. 


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net

Ẩn QC