NỬA TÌNH NỬA CẢNH

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Kiều ở lầu Ngưng Bích 

Trích đoạn chia làm 3 phần rõ rệt, nhất quán trong phong cách ngôn từ và thi pháp tả cảnh, tả tình. Cho nên nếu cho rằng chỉ ở phần thứ ba nghệ thuật biểu hiện mới là tả tình qua tả cảnh tuy có đúng nhưng không đủ, nhất là không thấy được tính nhất quán của Nguyễn Du. Để đảm bảo tính ổn định khách quan này, nên chăng cần một cách đặt tên:

- Nỗi buồn hiện tại

- Lòng thương nhớ người thân

- Tương lai vô vọng và vô định của kiếp người?

Cả ba phần tuy có hướng đến những khía cạnh khác nhau, song đều quy tụ vào "cái tôi" chủ thể: nàng Kiều. "Cái tôi" ở đây là " cái tôi" tâm trạng.

Trước hết ở sáu câu thơ đầu của bài thơ, tâm trạng của Kiều là một nỗi niềm khắc khoải triền miên trong nỗi buồn vô hạn. Nhưng buồn như thế nào, nếu phải cụ thể hơn thì có đến hai quan điểm. Cách nhìn nhận thứ nhất cho rằng cả sáu câu thơ đầu gợi tả hoàn cảnh cô đơn với những căn cứ ngôn từ có trong văn bản, chẳng hạn như: "khóa xuân" thực chất là bị giam lỏng, nàng trơ trọi  giữa không gian mênh mông, hoang vắng (mênh mang trời nước, dãy núi mờ xa, cồn cát bụi mù, không một bóng người), Kiều sống trong một thời gian tuần hoàn khép kín ( mây sớm đèn khuya, vv...) Cách hiểu ấy rõ ràng là có cơ sở nhưng dường như đã bỏ quên (hay là bỏ qua?) hai câu thơ vô cùng quan trọng là:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh, như chia tấm lòng

Ở câu lục, ý kiến nhận xét trên không đả động gì đến hai chữ bẽ bàng còn cả câu bát hoàn toàn không được nhắc đến. Bởi vậy chúng tôi cho rằng nên hiểu đoạn thơ theo cách thứ hai. Cách lấy hai câu dẫn làm căn cứ mới có khả năng phát hiện được tâm trạng đích thực của nhân vật nàng Kiều. Trong cách hiểu này, ta phải tách đôi câu sáu:

Bẽ bàng/ mây sớm đèn khuya

Đây là một câu thơ hai đối tượng: "bẽ bàng" thuộc về Thúy Kiều còn "mây sớm đèn khuya" thuộc về thiên nhiên. Soi vào thiên nhiên, Kiều nhận ra một thứ chân dung biến dạng của bản thân mình. Thiên nhiên ấy là gì, "mây sớm" thì tinh khôi, trong sạch "đèn khuya", phải chăng chính là lương tâm? Sự trong sạch "mây sớm" gợi cái tương phản nhơ nhớp, còn "đèn khuya" gợi sự giày vò của chính con người đau khổ ấy. Cái nhìn phản cảm này không phải bây giờ mới có. Ngay lần gặp Mã Giám Sinh, tên lừa đảo buôn người, Thúy Kiều đã vô cùng ngượng ngập:

Ngại ngùng dợn sóng gió e sương,

Ngừng hoa bóng thẹn trông sương mặt dày

Bởi đây là hai thế giới khác hẳn nhau, hai hạng người khác nhau mà Kiều phải nhắm mắt đưa chân làm con mồi cho chúng. Nhưng lần này thì khác. Cái xấu không còn ở đối phương, nó đã thuộc về chính mình, một con người đã có thời không  phải thế, một thời phong nhụy màn che, trướng rủ. Bởi thế mới dẫn đến "bẽ bàng". "Bẽ bàng" là sự tủi thẹn cho chính người đang có nó. Bởi nó đang hiện diện nơi nàng nên mới có sự phân đôi: một tấm lòng chia làm hai nửa; nửa tình, nửa cảnh. Tình và cảnh ở trong văn chương trung đại dường như đồng hành, một tiếng hát bè đôi theo nguyên tắc " Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Nhưng ở đây một nghịch lí xuất hiện phá vỡ nguyên tắc chủ quan hóa khách quan. Sự vò xé trong tâm trạng bởi không đồng hóa được giữa khách thể và chủ thể này đã làm giàu thêm yếu tố hiện thực trong thơ. Cảnh rất đẹp, rất trong, đầy ắp tiềm năng cho thi hứng, nhưng đối diện với nó, một hồn thơ không thể cất bút làm thơ như những lần trước đó và sau này. Tâm hồn ấy bị trọng thương. Con chim non nhìn bầu trời thèm khát nhưng không còn đủ sức để bay lên. Nó đã bị mũi tên nhắm trúng.

Từ đó ta mới thấy bốn câu thơ mở đầu là một  bức họa. Bức tranh như lời dệt gấm thêu hoa, ẩn hiện với " Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung". Ở câu thơ này còn có cái bất ngờ của cảm giác lạ. Khoảng xa, độ gần về vật lí, do nhận biết bằng tâm lí mà chúng đổi chỗ cho nhau. Trăng vốn xa bỗng chốc trở nên gần (tấm trăng gần) và ngược lại cái ở xa lại thuộc về núi.

Câu thơ mờ tỏ " Sen vàng lãng đãng như gần như xa". Hai cảm giác thực và mộng đan gài vào  nhau như hiện ra từ một giấc chiêm bao. Có người hiểu câu thơ đó tiếp nối  với hai câu thơ sau tạo tranh một sự bủa vây, tạo nên sự rợn ngợp trong tâm trạng của người nhìn cảnh là chưa đúng. Bởi nếu thế thì ở đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích  có đến hai lớp bao vây: một của Tú Bà ( khóa xuân), một là của thiên nhiên vô tội. Mà làm  sao có thể hiểu hai câu thơ rất đẹp rất thơ là sự bủa vây:

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

" Xa trông" là trông thêm một tầm của mắt, rộng hơn, thoáng đãng hơn, thấy những dặm đường, cồn cát. Chúng chỉ là những chi tiết đời thường rất dễ bị lãng quên, nhưng cát ở đó là "cát vàng" bụi đường quẩn lên là "bụi hồng",  bụi đỏ, thì đâu còn cái vô giá trị, cái tẻ nhạt? Nó đã nên thơ. Đúng ra là cuộc sống bình thường có chất thơ riêng của nó, khi con người không bị áp bức, không rơi vào cảnh ngộ đường cùng ( mà Kiều lúc này đây đang trải nghiệm). Bởi thế cái đẹp thuộc về "nửa cảnh", còn đối lập với  cái đẹp thuộc phía "nửa tình". Câu thơ và cả  đoạn thơ mới bề bộn ngổn ngang, giằng xé. Chỉ có điều bề bộn mà vẫn như không. Cái "động" ở đáy sâu chứ không phải nổi trên bề mặt nước tĩnh lại, yên bình. Những cặp câu thơ lục bát rất nhịp nhàng đăng đối vừa diễn tả cái lặng lẽ bên ngoài, vừa rất nên thơ. Phép đối trong câu, hoặc trong một vế câu rất công dụng của tác giả đã nâng tầm cái thực lên thành cái đẹp không đẽo gọt, cầu kì, rất dung dị, tự nhiên.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net

#thơ-ca