'Ala Rasi (*)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Dinh thự nhà Sudo nằm ở phía đông kinh đô Macedonica, trong điền trang Safiro rộng lớn. Tòa kiến trúc được xây hoàn toàn bằng những khối đá xanh thô ráp với hai ngọn tháp hình khối vuông nhô lên sừng sững ấy đã tồn tại qua rất nhiều đời quân vương Vespero và từng đổi chủ không dưới năm lần trước khi thuộc sở hữu của gia tộc Sudo. Bắt đầu từ thời Patro đại đế, Luzeline Hào Hoa – một trong mười hai kỵ sĩ Unua Cevalos của ngài – đã được ban tặng mảnh đất màu mỡ ven khu rừng Leopolda như phần thưởng cho hai mươi năm phụng sự trung thành. Trên mảnh đất đó, ông ta lập lên điền trang Safiro để tận hưởng quãng thời gian hạnh phúc bên cạnh người vợ mới cưới – phu nhân Lily – người phụ nữ nổi tiếng khắp bảy lãnh địa Thrace vì thói phù phiếm và sở thích tiêu tiền hoang phí. Lily thích ngôi nhà mới phải thật bề thế, độc đáo, tráng lệ, thế nên Luzeline đã dốc trọn mọi thứ ông có để xây dựng điền trang theo ý nàng. Và quyết định đó khiến cho vị kỵ sĩ gần như kiệt quệ về mặt tài chính. Vậy là vào cái ngày họ chuyển đến sống ớ Safiro, Luzeline đã có thể nhìn thấy được sự sa sút trong tương lai của mình. Safiro sau đó trở thành tài sản gán nợ cho Talis Râu Rậm - một quý tộc ít tiếng tăm – suốt ba thế hệ, rồi về tay lái buôn Harika đệ tam xứ Sogias cùng con cháu ông ta trước khi bị bán lại cho gã lính đánh thuê Vitaly Mặt Sẹo. Người ta nói rằng Vitaly đã mua và sửa sang điền trang Safiro chỉ để biến nó thành một món hồi môn đáng giá, giúp cô em gái yêu quý - tiểu thư Alyona – có đủ tư cách kết hôn với lãnh chúa Efrem Catillar. Truyền thống hồi môn này tiếp tục được duy trì thêm lần nữa khi danh sách quà cưới mà vợ chồng lãnh chúa Catillar gửi đến cho cô con gái của họ và đồng thời cũng là phu nhân của lãnh chúa Judas Sudo xứ Masian – phu nhân Rowenda – có thêm cả điền trang vùng Leopolda. Bằng cách rắc rối như vậy, Safiro đã thuộc về gia tộc Sudo. Đại nguyên lão chọn sống ở dinh thự này từ khi ông chính thức bước chân vào Nguyên Lão Viện và trở thành người đứng đầu cái hội đồng quyền lực ấy. Những bổn phận cùng trách nhiệm trong việc giúp đỡ cho người bạn thân thiết, hoàng đế Renando, đã khiến ông ta gần như chẳng còn mấy thời gian quay về ngôi nhà đích thực của mình – lâu đài Hycinth ở Masian.

Derizi kéo cái mũ trùm xuống thấp và cố ý quàng quấn thêm hai vòng khăn to sụ nữa quanh cổ để che đi cả nửa khuôn mặt. Nom chàng giờ đây giống hệt như một tên lữ khách nào đó vừa rẽ về hướng điền trang Safiro vì hiếu kỳ, hoặc cũng có thể vì cơn đói bất chợt ập đến sau chuyến đi dài. Tất nhiên, Derizi chẳng có ý mong cầu bữa ăn ngon hay mái nhà để trú ngụ, cũng chẳng phải kẻ lữ khách đương trong cuộc rong chơi, chàng tìm đến nơi này vì muốn biết mình nên làm gì để cứu được công chúa Nasya ra khỏi cảnh ngặt ngoèo. Từ cánh cổng lớn dựng lên từ đá hộc thẳng đến dinh thự là quãng đường dài khoảng hai dặm, chạy dọc theo bìa rừng. Khung cảnh khu rừng vào mùa đông nom thật thảm hại, tuyết phủ trắng xóa khắp mặt đất còn cây cối đều trơ cành lá, chúng tựa như bàn tay khẳng khiu, xấu xí chĩa lên bầu trời đầy thách thức. Safiro vào mùa đông ảm đạm và u ám hơn Farland rất nhiều, dẫu cho cái lạnh chỉ ngự trị ở nơi này trong khoảng thời gian chỉ bằng một phần tư so với vùng đất phương bắc xa xôi kia. Khi con ngựa Tris dừng lại trước cánh cổng của dinh thự, Derizi thấy những cái đầu ngoi lên từ tháp canh gác, kèm theo đó là cả đội cung thủ đang cầm sẵn vũ khí chờ lệnh. Đấy là một sự lạ lùng, bởi ở Safiro này, cái chốn giáp ranh với kinh đô Macedonica này, thì việc canh gác nghiêm ngặt nhường ấy dường như thật dư thừa.

"Đứng lại đấy đi anh bạn." Từ chòi gác trên cao, ai đó nói vọng xuống.

"Ta cần gặp Đại Nguyên Lão." Derizi ghì dây cương, chàng hướng về phía giọng nói và gào to đáp lời.

"Với bộ dạng đấy thì anh nên quay về đi." Kẻ kia đáp.

Derizi không đáp lại, chàng nhếch mép cười nhạt, toàn quất roi ra lệnh cho Tris tiến lên. Nhưng con ngựa yêu quý của chàng còn chưa kịp nhúc nhích thêm bước nào thì từ chòi canh một mũi tên cảnh cáo được bắn xuống, ghim thẳng xuống nền tuyết, tạo ra cái ranh giới vô hình và sặc mùi đe dọa ngăn cách chàng với cánh cửa nhà Sudo. Rõ ràng là điền trang Safiro đang ở trong trạng thái phòng thủ, những tên lính gác vì vậy mà trở nên cứng nhắc cũng như đa nghi hơn. Derizi tin rằng chúng sẽ dò xét bất kỳ thứ gì hít thở được muốn ra vào nơi này để chắc rằng sẽ không có cuộc tấn công nào diễn ra, một sự cứng nhắc đáng khen ngợi. Vậy là Derizi xuống ngựa, chàng kéo cái mũ trùm, rồi cả khăn quàng cổ to sụ xuống để đám lính canh nhìn rõ khuôn mặt mình. Tuy nhiên, kể cả khi chàng đã làm việc mà một vị khách đầy thiện chí và biết điều nên làm thì đám lính canh vẫn chưa cho phép chàng đi qua cánh cổng dinh thự. Sự im lắng hồi lâu của họ khiến chàng chột dạ, thay vì quen thuộc như chàng nghĩ thì khuôn mặt này liệu chăng có quá xa lạ với những kẻ đang canh gác phía trên kia. Thế rồi, chàng nghe thấy tiếng người ra lệnh mở cửa. Đến tận lúc này, Tris mới được hiên ngang bước vào dinh thự Safiro.

"Kính chào ngài, thưa hoàng tế." Lão quản gia Milas đã đứng sẵn trong sân, thoáng trông thấy chàng, lão chào đón trịnh trọng. Milas là một lão già cứng nhắc, lão có thể miệt thị thằng con hoang chăn ngựa ở Hycinth mỗi ngày và bằng những từ ngữ hạ đẳng nhất, như chàng vẫn nhớ. Nhưng kể từ lúc thằng con hoang ấy trở thành phu quân của công chúa Nasya thì lão luôn nhất mực giữ thái độ tôn kính, cứ như thể trong đầu lão chưa từng nghĩ đến chút mảy may khinh bỉ nào. Lão khiến chàng tin rằng có những người được thánh thần tạo ra và để cho sống sót ở trần thế chỉ với một mục đích duy nhất là tôi tớ cho kẻ khác.

Chàng không đáp, chỉ xuống ngựa và ngoắc gọi thằng nhóc gần đó đến dắt Tris vào chuồng. Milas vẫn đứng nghiêm trang chờ đợi, đầu ông ta cúi gằm theo đúng phép tắc. Sau khi cắt cử xong xuôi cách chăm sóc cho con ngựa yêu quý, chàng mới nhìn về phía lão quản gia.

"Ta chưa từng thấy điền trang được canh phòng nghiêm ngặt như vậy." Derizi tháo găng tay và ném nó cho Milas, chàng bước thẳng vào trong dinh thử, chẳng buồn để tâm xem lão quản gia già cả có theo kịp mình hay không. Kỳ thực thì ở Vespero này, những người chủ không bao giờ chú ý đến chuyện nhỏ nhặt như vậy, vì đó là việc thuộc về bổn phận của lũ người hầu. Chúng phải luôn chắc rằng mình ở một vị trí thuận tiện nhất để phục dịch bất cứ khi nào người ta cần đến.

"Tôi nghĩ là ngài sẽ hiểu rõ hơn mọi chuyện khi đến nơi." Milas đáp. Ông ta nói nhanh thêm rằng chàng cần phải rẽ trái khi cả hai băng qua tiền sảnh rộng lớn – nơi thường được dành cho những bữa tiệc – và đi đến cuối hành lang bên hông. "Chúng ta sẽ đến phòng nghỉ, thưa ngài."

Trên trán Derizi thoáng hiện nét nhăn nhó. Nhà Sudo có một vài quy ước về mặt từ ngữ, chàng nhớ lại, chúng được đặt ra để sử dụng trong các trường hợp cấp bách, như một cách ngụy trang khéo léo và đảm bảo rằng tin tức liên quan đến vận rủi hay điều bất lợi cho họ, dù có lọt vào tai kẻ khác cũng chẳng khác gì một câu chuyện tán gẫu vô hại. Và lão quản gia Milas vừa thốt ra một trong số những từ mỹ miều đó. Phòng nghỉ của gia tộc Sudo không mang ý nghĩa thoải mái cho lắm, nó là chỗ dành cho những thầy thuốc chuyên tâm chữa trị. Thế nên, từ khi chưa đặt chân vào căn phòng cũng như nhìn thấy đại nguyên lão nằm trên giường bệnh với sắc mặt nhợt nhạt, Derizi đã đoán được ra tình cảnh khốn khổ của ông ta.

"Kính chào ngài, thưa hoàng tế..." Phu nhân Rowenda luống cuống đứng dậy, nét mặt bà tiều tụy và cặp mắt vẫn còn hoe đỏ.

"Chào phu nhân. Ta rất tiếc về chuyện này." Derizi liếc nhìn đại nguyên lão, chàng nói với giọng điệu chân thành. Và dường như phu nhân Rowenda chỉ đợi có vậy để thuật lại tất cả những bất hạnh đã ập xuống gia đình bà trong thời gian qua, kể từ lúc thái tử Orson nắm quyền nhiếp chính.

"Hắn ta đã gửi lời mời đến ông ấy..." Người phụ nữ nấc nghẹn. "Judas tới cung điện Esta...và khi về nhà, ông ấy ngã quỵ. Hắn đã đầu độc ông ấy..."

Cả Derizi và lão quản gia đều im lặng, họ để mặc cho phu nhân Rowenda thốt ra những lời lẽ bất kính với Orson như một cách giúp bà ta cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Bất chợt, đại nguyên lão thở hắt. Phu nhân Rowenda sợ hãi, bà lau vội những giọt nước mắt và lao đến bên cạnh chồng mình, dịu dàng hỏi xem ông cảm thấy thế nào. Judas Sudo ra hiệu cho bà đỡ ông ta ngồi dậy. Derizi lưỡng lự đôi chút, rồi chàng bước đến gần giường để cúi chào đại nguyên lão. Nom sắc mặt Judas không tốt cho lắm, song chàng lén thở phào vì ông cũng chưa đến mức nguy kịch. Tình trạng của cha nuôi chàng có lẽ hẵng còn rất khả quan, và chuyện nghĩ đến việc ông sẽ sớm khỏe mạnh trở lại cũng chẳng phải điều gì hoang đường.

"Đừng vội nói gì, ngài cần nghỉ ngơi." Chàng nói với Judas như vậy. Đại nguyên lão khẽ gật đầu, đôi môi khô nứt của ông ta hơi giãn ra thành một nụ cười nhợt nhạt. Judas đưa mắt nhìn vợ, có vẻ cả hai người đang trao đổi điều gì đó, bất chấp sự có mặt của Derizi lẫn lão quản gia Milas. Thế rồi phu nhân Rowenda ra lệnh cho Milas lui ra, thậm chí bà còn cẩn thận canh chừng ở cửa trong lúc đại nguyên lão thều thào trò chuyện với chàng.

Judas Sudo hẵng còn yếu, nhưng ông ta cố lật ngửa lòng bàn tay của Derizi. Thoạt đầu, chàng cho rằng đấy là một hành động khó hiểu và có phần lẩm cẩm, song vì phép lịch sự đối với người ốm nên chàng chiều lòng cha nuôi của mình. Nhưng cũng rất nhanh chòng, khi Judas bắt đầu nghệch ngoạch di đầu ngón tay trỏ lên lòng bàn tay, chàng nhận ra ông ta đang muốn viết cái gì đó. Phải mất một lúc, Derizi mới đoán được các ký tự rời rạc bằng tiếng Rusland mà đại nguyên lão viết ra là gì. Sau khi biết chàng đã dần quen với cách trò chuyện này, Judas mới dần đề cập đến những chuyện quan trọng hơn cũng như giải đáp tất thảy mọi thắc mắc lẫn nghi hoặc của chàng.

Cuộc trò chuyện kỳ quái đó diễn ra suốt nhiều giờ đồng hồ, và cho đến lúc phu nhân Rowenda ý nhị gõ ba tiếng vào cánh cửa để báo hiệu đã đến giờ dùng thuốc, hai người đàn ông mới tạm dừng lại. Derizi cúi chào, chàng theo lão quản gia Milas đến phòng nghỉ vừa được người hầu chuẩn bị ở phía đông dinh thự.

Vừa bước vào phòng, việc đầu tiên Derizi làm là ngồi vào bàn và vội vã thảo ra một lá thư. Nội dung chỉ vỏn vẹn vài chữ, tất nhiên, cũng chẳng đề tên người nhận. Rồi chàng sai người thân tín trong gia tộc Sudo chuyển nó đến doanh trại Manteo trong thời gian nhanh nhất có thể. Sau khi sắp xếp xong xuôi chuyện thư từ, chàng mới thở dài, bước đến gần cửa sổ. Phía bên ngoài gió lạnh lại nổi lên và tuyết bắt đầu rơi lả tả thêm trận mới. Derizi đưa mắt hướng về phía cung điện Esta, trong đầu chàng thoáng hiện lên khuôn mặt của Drako bé bỏng, sinh linh đẹp đẽ ấy khiến lòng chàng dịu lại. Vị hoàng tế đưa tay đóng cửa sổ trước khi thả mình xuống chiếc giường êm ái, chàng cần nghỉ ngơi đôi chút, vì đêm nay có lẽ sẽ rất dài.

*

* *

"Đêm nay sẽ dài đấy, cậu người mới ạ."

Gã cai ngục Belma nói với tên lính trẻ tuổi vừa đến thay ca như vậy trong lúc cả hai đi tuần một vòng quanh nhà lao. Nói rồi gã đưa cho tên lính cái bình da thuộc của mình và ra hiệu mời hắn uống một ngụm. Hẵng còn là mùa đông, thế nên dù đã bị cấm uống rượu trong phiên canh đêm, song Belma vẫn không bỏ được thứ thức uống cay nồng ấy. Nhìn thằng nhãi đi bên cạnh lưỡng lự, gã liền quả quyết rằng đấy là cách duy nhất giúp hắn chống chọi được với cái lạnh ban đêm ở đây. Tên lính trẻ tuổi nghe vậy thì chậm chạp đưa bình nên tu một hơi rồi đưa trả lại cho Belma cùng lời cám ơn kiểu cách. Gã không quen khi nghe những lời quá tử tế như vậy, nhưng chẳng rõ vì đâu vẫn thấy vui vẻ trong lòng và bởi vậy gã có thiện cảm hơn với tên lính mới này.

"Cậu tên là gì?" Gã hỏi vì chợt nhớ ra vẫn chưa biết gọi người mới đến ra sao.

"Cenk Fatih. Nhưng bác có thể gọi tôi là Cenk." Tên lính đáp.

"Nghe hay đấy." Belma tán thưởng một cách hơi nhiệt tình thái quá. "Hơn cái tên gác đêm với ta ngày hôm qua, một thằng mọi Cigany."

"Anh ta làm gì khiến bác phật lòng à?" Cenk hiếu kỳ. Hôm nay là ngày đầu tiên hắn canh đêm ở nhà ngục, thế nên cũng chẳng lạ khi Belma nhận được quá nhiều câu hỏi ngu ngốc. Bình thường gã cai ngục sẽ không buồn trả lời, nhưng vì mối thiện cảm với người mới nên gã lại giải đáp cặn kẽ từng chút một. Dĩ nhiên, gã không có ý định che giấu sự ghê tởm lẫn khinh miệt đối với tên cựu đồng nghiệp gốc Cigany của mình. Gã chửi tên mọi ấy là loại vô kỷ luật, lười biếng và gian trá vì hay nốc rượu nhiều đến nỗi ngủ quên suốt phiên gác hay thường xuyên nhận tiền lẫn tặng phẩm để phớt lờ đám trộm cướp.

"Lũ mọi chẳng bao giờ giống chúng ta được." Belma kết luận với giọng điệu đầy vẻ từng trải.

Tuy nhiên, trái với mong đợi của Belma, Cenk Fatih không gật gù tán thưởng. Hắn ta nom có vẻ lơ đãng, hoặc vẫn đang quá choáng ngợp trước cái sự nhớp nhúa bẩn thỉu vĩ đại của nhà lao. Họ rẽ trái ở chân bậc thang đá, chỉ cần đi hết tầng này là Belma có thể đánh một giấc ngắn. Vừa nghe thấy tiếng bước chân người, trong những buồn giam, đám phụ nữ trộm cắp ngóc đầu dậy, vài cô ả trẻ trung lao đến bám chặt lấy song sắt, cố nhìn hai người lính canh bằng cặp mắt ướt át đầy mời gọi. Một số khác lại liều lĩnh giơ tay cầu cứu, miệng gào lên những lời van xin thảm thiết. Belma đã quen với chuyện này, gã gầm gừ dọa nạt họ trong lúc Cenk dán mắt vào khuôn mặt từng người. Ôi tuổi trẻ, gã cải ngục già cười khẩy. Rồi gã gõ cán roi ngựa của mình vào chấn song, tạo thành những âm thanh chói tai. Miệng gã liên tục quát tất cả im lặng, khi một vài kẻ vẫn ngoan cố khóc lóc, gã thẳng tay vung roi vun vút. Belma cảnh cáo đám đàn bà trong ngục với sự hăng hái lạ thường, cứ như thể gã muốn tạo ấn tượng là một tay lọc lõi trước cậu chàng Cenk trẻ người non dạ mới tới. Gã khoái cái vẻ tử tế của Cenk, nhưng trong nhà ngục thì sự tử tế khá dư thừa.

"Im mồm." Belma quát, nhát roi ngựa của gã vụt rách má một cô gái trẻ tuổi. Cenk Fatih giật mình trước cảnh tượng ấy, song ngay lập tức gã giải thích. "Với lũ đàn bà này phải mạnh tay như vậy, chàng trai ạ. Cậu không thể xem chúng ngang hàng với các tiểu thư hay phu nhân quý tộc. Mà dẫu có là công chúa thì khi vào đây cũng chẳng khác được đâu."

Cenk Fatih bị câu cuối của Belma làm cho phì cười, dù bản thân gã lại chẳng thấy vậy. Thế là cuộc trò chuyện giữa hai người sau đó trở nên cởi mở hơn. Vừa rảo bước, gã cai ngục Belma giới thiệu cặn kẽ từng buồng giam cũng như tội trạng của đám tù nhân bị nhốt trong đó. Đại ngục Tartarus ở kinh đô Macedonica là nơi giam giữ đủ thứ tội nhân trên đời, từ đám trộm cắp, lừa đảo nhan nhản ở phố chợ, cho đến lũ lính gác phạm lỗi, nô lệ trốn chạy, thổ phỉ cướp bóc,...Belma nói về nơi này cặn kẽ đến mức gã thuyết phục được Cenk rằng mình thông thạo nó hơn bất cứ ai. Cuộc trò chuyện bị gián đoạn đôi chút ở ngã rẽ thứ hai, dẫn vào ngục tối. Belma thắp đuốc trước khi cả hai đi tiếp, gã còn cẩn thận lấy thêm nước lạnh.

"Cho cô ta." Belma nhún vai, nom gã có vẻ hơi ngạc nhiên. Ai mà chẳng biết cái lệ này, cách lính canh lẫn cai ngục đều được dặn dò phải làm vậy mỗi ngày. "Công chúa Nasya. Ngài nhiếp chính không muốn em gái mình bị khát, thánh thần ban phước cho ngài ấy, một con người thật độ lượng."

"Nhưng chính ngài Orson..." Cenk Fatih thốt lên, dường như không đồng tình với cái cách Belma tán dương nhiếp chính hiện thời. Song anh ta nói chưa dứt lời thì gã cai ngục đã cắt ngang.

"Cô ta là kẻ phản loạn. Qủa đáng tội, nhưng nếu là đức vua thì ngài đã cho treo cổ cô ta ngay lập tức như với lão Vasily Donatti sau trận Sói Tuyết rồi." Gã cai ngục nói khi mở cửa bước vào buồng giam.

Cenk Fatih theo đang sau Belma. Khi ánh đuốc thắp sáng căn buồng giam, trước mắt tay lính gác ấy hiện ra một cảnh tượng khủng khiếp. Công chúa Nasya bị treo trên cái giá chữ thập. Tóc tai rối bù và rũ rượi, quần áo nàng rách nát nom như mớ giẻ lau, máu loang lổ thành từng mảng, chỗ thâm đen chỗ còn thắm đỏ. Mặt mũi lẫn chân tay nàng chi chít vết roi, da thịt nàng còn hằn dấu sắt nung. Tình cảnh đó khiến Cenk kinh hãi, hắn toan lại gần lay gọi nàng, nhưng sự có mặt của Belma ngăn hắn làm vậy. Gã cai ngục tát nhẹ vào má Nasya để đánh thức nàng khỏi cơn mê mệt, rồi gã đưa tay bóp miệng nàng, đổ thốc tháo bình nước ép uống. Nàng công chúa vẫn chưa tỉnh táo hẳn, song nàng vẫn giữ thái độ phản kháng, chỉ chờ Belma thả tay ra khỏi nàng phun ngụm nước đang ngậm trong miệng vào mặt gã. Cai ngục già bạt tai công chúa, gã bực bội rút roi ngựa và quất tới tấp vào người nàng để trừng phạt. Chưa dừng lại ở đó, Belma bước đến chỗ chậu than phía bên ngoài, gã trở vào với một thanh sắt đỏ au. Cenk Fatih chứng kiến tất cả, hắn run lên từng hồi vì bất bình lẫn kinh hãi cách Belma đối xử với công chúa Nasya. Nàng là một người phụ nữ, sau rốt Cenk lên tiếng, hắn giữ chặt lấy tay gã cai ngục và gằn giọng nhắc nhở. Đối với đám đàn bà phạm tội khi nãy, đòn roi của Belma là sự nghiêm khắc, hắn có thể chấp nhận được khi chứng kiến đòn roi đó. Nhưng đối với người phụ nữ khốn khổ đang bị treo trên giá kia, Cenk nhấn mạnh, điều mà gã cai ngục làm chẳng khác gì trò tra tấn dã man. Nếu phải chứng kiến tiếp cảnh Belma áp thanh sắt nung trên tay vào người công chúa, thì ắt đến kẻ lưu manh đốn mạt nhất cũng dành cho nàng chút mảy may thương cảm. Khuôn mặt giận dữ của Cenk, cái cách cặp mắt hằn tơ máu của hắn xoáy vào người đối diện, và cả bàn tay đang gồng cứng lên như sắt nguội kia, tất cả đều hiện hữu sự đe dọa đầy nguy hiểm, đến mức Belma phải nhượng bộ một cách miễn cưỡng.

"Ta được phép làm vậy, Cenk. Nhiếp chính vương không muốn công chúa chết, nhưng ngài chưa bao giờ cấm chúng ta trừng phạt tội cô ta." Gã cai ngục lùi lại vài bước, ném phăng thanh sắt ra ngoài cửa và đáp lại bằng một giọng chẳng lấy gì làm thân thiện.

"Trước khi người ta luận tội công chúa, nàng vẫn là người vô tội." Tên lính trẻ tuổi đáp.

"Với tao thì những kẻ bị tống vào đây chưa bao giờ vô tội cả." Belma giận dữ bỏ đi, mang theo cả ngọn đuốc đang cháy đượm – nguồn sáng duy nhất ở nơi tối tăm này.

Tên lính trẻ lắc đầu, hắn quờ quạng nhặt lại bình nước vừa bị vứt lăn lóc trên sàn. Trong bóng tối, hắn nghe thấy tiếng Nasya ho sặc sụa, hơi thở của nàng nặng nề dần như chìm vào giấc ngủ. Thế rồi khi đứng dậy toan rời đi, hắn biết công chúa đang gọi tên ai đó trong lúc mê man. Giọng của nàng run rẩy và chỉ trực vỡ vụn.

Trời về khuya hơn. Cenk ngồi sau chiếc bàn gỗ dành cho lính canh, cách đó không xa, ở cái giường trải rơm nằm ăn vào hốc tường là gã cai ngục Belma đang gáy đều đặn ngon giấc. Tên lính trẻ ngước lên nhìn qua ô cửa sổ, trong đầu hắn không ngừng nghĩ đến nàng công chúa ở căn ngục tối. Ngay cả trong giấc mơ chập chờn, nàng vẫn gọi tên người đàn ông mà nàng yêu quý. Đáng lẽ kẻ may mắn đó nên bảo vệ nàng mới phải...thay vì bỏ mặc nàng ở chốn địa ngục này. Đột nhiên, tên lính nghe thấy tiếng đập cánh nhẹ nhè của loài quạ đưa thư ở cửa sổ. Hắn thận trọng nhìn sang phía Belma để chắc là gã vẫn đang ngủ như chết trước khi nhẹ nhàng đứng dậy, tiến lại gần ô cửa sổ. Chẳng có thư từ gì, nhưng phía chân trái của con vật có buộc một dải lụa màu đỏ. Tức thì Cenk như trở thành người khác, hắn khéo léo lục lọi người gã cai ngục để tìm chùm chìa khóa phòng giam. Đương lúc làm vậy, gã tỉnh lại. Thế là Cenk quyết định xử lý gã ngay lập tức, hắn vơ tay lấy chiếc áo choàng mà Belma dùng làm gối đầu, phủ kín mặt đối thủ tội nghiệp rồi dứt khoát cứa một đường thật sâu, cắt đứt cổ họng tên cai ngục và cướp đi chùm chìa khóa.

Khi cảnh cửa đại ngục Tarta mở ra, một toán người đã được vũ trang đầy đủ nhẹ nhàng di chuyển vào trong. Họ tuân theo ký hiệu của Cenk Fatih, tỏa ra khắp đại ngục và hạ sát bất kỳ tên lính canh nào không may bắt gặp mình. Cả đại ngục Tarta rồi sẽ trở thành một biển máu. Còn Cenk, hắn nhanh chóng đi thẳng đến căn ngục tối đang giam giữ công chúa Nasya.

"Tỉnh lại đi Nasya." Cenk... mà không, vào lúc này hắn không còn muốn được gọi bằng cái tên xa lạ này nữa. Hắn là Derizi Flava, và đấy là cái tên hắn muốn nghe công chúa thốt ra. Hoàng tế nóng lòng mở khóa những

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net