YA ROUHI (*)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Việc viết một lá thư đối với Hela chưa bao giờ là việc khó khăn. Nàng đã được nuôi dạy theo cách mà những người phụ nữ của gia tộc Ibuntal luôn được nuôi dạy, kim thêu đi cùng với bút lông ngỗng. Chẳng thế mà ngay từ lần đầu đọc thư phúc đáp do chính tay nàng viết để nhận lời hứa hôn, hoàng đế đã khen ngợi và sau đó là yêu cầu nàng giúp ngài soạn thảo những lá thư gửi đi khắp hai mươi tư đại đô thành. Thế nhưng, tất cả những chuyện đáng tự hào này đều không giúp được nàng vơi bớt nỗi bối rối khi bắt đầu viết thư cho phu quân.

Lá thư đầu tiên của nàng dành cho ngài được viết vào một đêm rất khuya, bằng đôi tay run rẩy cùng những lời lẽ lủng củng đến nỗi nàng cũng phải cảm thấy xấu hổ khi đọc lại. Nàng từng đọc nhiều cuốn sách, song thật đáng buồn khi phải thừa nhận rằng thơ ca và văn chương diễm lệ chứa đựng trong chúng hoàn toàn chẳng có ích gì để giúp nàng có thể diễn đạt được hết mọi điều mình muốn gửi gắm đến hoàng đế. Hela có rất nhiều chuyện để kể với ngài, nhưng nàng lại chẳng biết phải lựa chọn chuyện nào để viết ra. Nàng không thể nhắc đến việc đã thay phu nhân Hatice đi phát chẩn cho dân chúng, vì nàng nghĩ như thế thật tự phụ. Song, nếu kể chuyện lớn lao hơn như giúp trưởng công chúa Nubar chuẩn bị của hồi môn, thì cũng quá thừa thãi, bởi chắc hẳn hoàng đế đã biết từ lâu. Cuối cùng, sau một hồi đắn đo, nàng quyết định viết về cuộc sống hằng ngày của mình và con mèo Pillar. Bắt đầu từ việc có đôi vợ chồng già đến tận cửa cung điện chỉ để dâng tặng nàng chiếc khăn thêu tay có những họa tiết đuôi khổng tước, rồi cả chuyện nữ tỳ Missei của nàng lỡ tay đánh đổ hũ mực lên người Pillar, khiến bộ lông của nó trở nên đen thui như lông quạ,... Cứ như vậy nàng kể hết với ngài chuyện vặt vãnh trong cung điện. Vào buổi sáng ngày hôm sau, nàng đóng ấn triện niêm phong thư trước lúc giao nó cho một tín sứ thân tín để chuyển đến Berouin.

Từ kinh đô Virat đến xứ Berouin là cả một quãng đường dài tính bằng hàng tuần cưỡi ngựa. Thế nên sau khi tín sứ lên đường, nàng bỗng trở nên bồn chồn hơn vì thường tưởng tượng xem hoàng đế sẽ đón nhận lá thư với thái độ ra sao. Ngài sẽ thích nó? Hoặc cũng có thể ngài sẽ cảm thấy nó thật phiền phức và việc đọc những điều nàng viết sẽ khiến ngài lãng phí thời gian của mình? Hay, một cách lịch thiệp hơn, ngài chẳng vội đọc qua mà xếp nó vào đống giấy tờ nào đó rồi quên luôn chuyện mở dấu niêm phong. Suốt thời gian chờ đợi ở Niniveh, thỉnh thoảng Hela lại nhớ đến Olvida. Cô gái người Rusland có mái tóc vàng óng ả đấy hình như cũng gửi tặng hoàng đế những món quà nhỏ, theo như lời đồn mà Missei nghe ngóng được. Dẫu đấy chỉ là lời đồn, vì chẳng ai từng trò chuyện với cô ta, thì hành động có vẻ thân thiết ấy đã khiến nàng không chỉ thấy hiếu kì mà còn thấy bực bội.

Thật vô lý và sai trái khi khó chịu với một người mình chưa gặp bao giờ. Hela tự nhủ, nàng cố xua đi ý nghĩ cho rằng Olvida cũng giống như Kayla Umeyy, đều là những người phụ nữ mà hoàng đế yêu quý, và nàng cần quen dần với sự hiện diện của họ. Có điều, mỗi lần nàng làm như vậy thì những lời đồn đại về Olvida lại văng vẳng đâu đó.

Đến giữa mùa hè, cái nóng bức phương Nam càng lúc càng khiến Hela khó chịu. Nàng không còn thích ở trong phòng mỗi tối để đọc sách nữa, thay vào đó, nàng cũng tham gia vào những yến tiệc mà các phu nhân và hầu thiếp thường tổ chức mỗi tối. Thời tiết ơi ả ở kinh đô có lẽ cũng làm họ cảm thấy việc ngồi trong những khu vườn sáng trưng đèn đuốc, nghe nhạc công chơi đàn, thưởng thức rượu nho cùng trái cây ướp lạnh sau giờ cầu nguyện thứ ba trong ngày cuốn hút hơn mọi trò vui trong nhà khác. Đó cũng là cơ hội để phụ nữ trong hậu cung có thể tán gẫu vui vẻ cũng như cởi mở với nhau hơn. Có lẽ vì thế mà các hầu thiếp cùng phu nhân đều đón nhận sự xuất hiện của Hela với một thái độ khá thân thiện thay vì e dè như trước. Còn Kayla Umeyy, kể từ sau vụ việc ở hồ Awjila, cô ta luôn tìm cách tránh né nàng.

"Lệnh bà sẽ muốn nếm thử loại nước này." Một nàng hầu dâng ly bạc cho Hela ngay khi nàng vừa ngồi xuống chỗ ngồi được trải thảm và xếp sẵn gối tựa của mình. Nom cô ta chỉ trạc tuổi nàng. "Nó được làm từ trái cây lên men."

"Cô tên là gì?" Hela đón chiếc ly, nàng đưa lên mũi ngửi mùi nước quả cay nồng và nhìn nàng hầu vừa tiến lại gần mình bằng ánh nhìn dò xét.

"Đây là phu nhân Ayse, thưa lệnh bà." Nữ tỳ đứng cầm bình cạnh cô ta vội vã trả lời, khuôn mặt cúi gằm tránh nhìn thẳng vào nàng. "Phu nhân được gia tộc Tartagye dâng tặng cho đức ngài."

Hela gật gù khi nghe câu trả lời từ nữ tỳ. Nàng nhấp thử một ngụm nước quả. Gia tộc Tartagye vốn là đồng minh lâu đời của nhà Ibuntal, vì thế lẽ dĩ nhiên nàng cũng dành cho Ayse đôi chút thiện cảm và cho phép cô ta được ngồi cạnh mình. Ayse dường như là một cô gái khá đáng mến, cô ta nói những lời dễ nghe, đôi lúc có vẻ khá ngờ nghệch, song hoàn toàn không làm người khác khó chịu. Vì nhà Tartagye đã đưa Ayse đến Nineveh ngay sau khi hoàng đế đăng quang, thế nên cô ta gần như quen biết với tất cả mọi người trong hậu cung. Hela rất hào hứng với chuyện này, nàng tỏ ra thân thiện hơn với Ayse khi yến tiệc càng về khuya. Thỉnh thoảng, giữa một vài lời nhận xét vô thưởng vô phạt về thái phi hay hầu thiếp khác, Hela lại nhắc đến những cái tên mà nàng quan tâm. Tất nhiên, một trong số đó không thể thiếu được cô gái Olvida bí ẩn mà nàng chưa bao giờ gặp kia.

"Olvida?" Ayse lặp lại, rồi nhìn thấy cái gật đầu nhè nhẹ của Hela, cô ta hướng ánh nhìn về phía một cô gái đang ngồi mơ màng ở góc khuất phía sau vài hầu thiếp khác. "Cô ấy chẳng bao giờ trò chuyện với thần hay với bất kỳ người nào khác."

Ayse nói thêm rằng mình xem Olvida như một bóng ma u buồn. Cô nàng Rusland đấy luôn xuất hiện một cách lặng lẽ, nét mặt u uất và tiều tụy. Điều duy nhất tốt đẹp ở Olvida mà mọi người biết đến, đó là cô ta rất khéo tay. Khăn thêu hay trang sức do Olvida làm ra thường khiến người khác phải trầm trồ khen ngợi. Và chỉ vậy. Hela nhìn về phía Olvida trong khi vẫn nghe những điều Ayse nhận xét về cô ta, tay nàng đưa cốc bạc lên uống thêm một ngụm nữa. Đấy sẽ là ngụm cuối, nàng tự nhủ, thứ nước ngòn ngọt mùi men này không phải thức uống nàng thích.

Vào buổi sáng ngày hôm sau, nàng sai những kẻ hầu đem đến một súc lụa biển và cho gọi Olvida đến phòng riêng của mình. Cũng giống như hoàng đế, mọi lời nói thốt ra từ miệng nàng đều là mệnh lệnh mà rất ít người có thể từ chối nghe theo. Olvida nhanh chóng xuất hiện trước mặt nàng, cô ta vẫn giữ vẻ ảo não cố hữu, ngay cả khi nhún chân hành lễ với nàng.

"Hãy cầm lấy nó." Hela ra hiệu cho nữ tỳ đem súc lụa đến. Nhìn vẻ ngơ ngác của Olvida, nàng nói thêm. "Ta đã nghe rằng cô hỏi xin vải để may áo cho đức ngài."

"Tạ ơn... lệnh bà." Olvida ngập ngừng, có vẻ như cô ta bị cái nét mặt non nớt của nàng làm cho bối rối khi lựa chọn từ ngữ để xưng hô."Nhưng thần xin từ chối, vì nhũ mẫu đã cho người đem đủ vải đến chỗ thần."

"Cô chỉ muốn may một chiếc áo thôi sao?" Nàng hỏi.

"Vâng, thưa lệnh bà. Chỉ một chiếc, cho sinh nhật của ngài." Cô ta đáp.

Sinh nhật của hoàng đế diễn ra vào mùa thu, trước lễ mùa màng khoảng một tuần. Hela nghĩ trong đầu như vậy, nàng nhìn Olvida một hồi, rồi nàng lại thấy bất an. Cô ta có dáng người mảnh khảnh, yếu ớt và nhợt nhạt. Thế nhưng dáng đi đứng uyển chuyển, bước chân êm nhẹ như chim bay khi mới vào phòng lại mách bảo cho nàng biết, cô ta là hoặc đã từng là một vũ công lành nghề. Hoàng đế thường thích những vũ công, giống như Kayla vậy. Và vì ngài thích nên nàng dần có ác cảm với họ. Tay nàng tựa vào gối, trong lòng bực dọc. Olvida tựa hồ cũng cảm nhận được hoàng hậu đang nhìn mình, cô ta nép người đứng sáng một bên, khuôn mặt cúi gằm.

"Trí nhớ của cô thật tốt. Và cô cũng rất chu đáo nữa. Cứ nhận thêm lụa đi, xem như phần thưởng ta dành cho cô..." Nàng lạnh giọng.

Olvida ngần ngừ đôi chút khi nghe vậy. Sau một hồi cô ta mới bước đến nhận súc vải trên tay Missei. Càng nhìn cử chỉ lẫn bộ dạng của Olvida, Hela càng không kiềm được suy nghĩ so sánh cô ta với Kayla. Giữa họ, hoàng đế yêu quý ai hơn? Nàng phải đề phòng ai và kết bạn với ai? Phu quân của nàng hiếm khi quan tâm đến các tình nhân lẫn hầu thiếp, nếu họ không có gì quá đặc biệt khiến ngài cảm thấy thích thú. Như đối với Kayla, cô ta biết cách quyến rũ, chiều chuộng và thoả mãn ngài. Hay như Olvida đang đứng trước mắt nàng đây, lại thành thạo cách làm một người vợ lý tường. Thánh thần ơi, nàng không thể tưởng tượng nổi còn bao nhiêu người giống như họ trong hậu cung này nữa, cũng như là...

Mình đang làm gì thế này? Nàng tự chế giễu bản thân khi đã cho gọi Olvida đến đây chỉ để dò xét một cách đầy nhỏ nhen lẫn đố kỵ.

Hela đưa tay nhận con mèo Pillar từ tay người hầu. Olvida vẫn đứng cúi đầu cung kính ở một bên. Sự im lặng phủ trùm lên cả căn phòng, còn không khí thì căng như dây cung chờ bắn đi mũi tên sắc nhọn đã được so dây sẵn. Cuối cùng, Hela là người phải lên tiếng trước, nàng đành ra hiện cho nàng hầu người Rusland kia lui ra ngoài.

Ngày thứ hai mươi hai sau khi tín sứ đưa thư lên đường. Và hoàng đế vẫn chưa hề hồi âm cho nàng.

*

* *

Ta nhớ nàng. Hãy tiếp tục viết thư cho ta.

Trí tưởng tượng phong phú và rảnh rỗi của Hela đã từng vẽ ra rất nhiều kiểu hồi âm khác nhau mà nàng nghĩ hoàng đế có thể gửi cho mình. Thế nhưng, nàng không ngờ được là lá thư của ngài lại chỉ gói gọn trong hai câu ngắn ngủi. Nếu so với năm trang giấy cói kín đặc chữ cùng một vài vệt sáp nến mà nàng vụng về làm rơi vào, thì quả thực chẳng có sự tương xứng nào cả. Dẫu vậy, thật lạ lùng sao, Hela đọc đi đọc lại thư không dưới mười lần. Mỗi bận như thế, nhìn từng nét chữ tháu đầy vội vã trên giấy, trong lòng nàng bỗng cảm thấy vui vẻ. Ngài đã đọc thư của nàng, và việc ngài muốn nàng tiếp tục gửi thêm những lá thư khác cho thấy rằng chúng không gây phiền phức hay làm ngài khó chịu. Hơn nữa, Hela bước ra ban công vào buổi sáng, nàng nhìn xa xăm về phía tây, ngài nhớ nàng.

Vậy là từ đó trở đi, Hela lại có thêm một công việc để làm mỗi ngày. Theo mong muốn của hoàng đế, nàng đều đặn viết rồi gửi đi những lá thư. Còn ở vùng đất phía Tây, để đáp lại sự chăm chỉ của nàng, hoàng đế cũng dần quen với việc thức khuya hơn một chút để đọc thư và hồi âm. Ngài kể cho nàng nghe rất nhiều chuyện mới mẻ, có khi đó là chuyện ngài đang đi đến thành trì nào, ngài gặp được điều gì thú vị trong chuyến đi, hay được dân chúng yêu quý ra sao. Chuyện ngài kể cuốn hút và dễ hiểu đến mức thỉnh thoảng Hela cảm thấy như nàng cũng đang ở trong đội quân của hoàng đế, cùng ngài trải qua tất cả một cách chân thực nhất dù nàng chưa bao giờ rời khỏi cung điện. Thư từ giữa hai người được duy trì liên tục như vậy trong hàng tháng trời, cho đến khi cái tin thái phi Hatice qua đời ập đến.

Hela sẽ không bao giờ quên được tang lễ của người. Bởi đó là lúc nàng được chứng kiến sự ghẻ lạnh và thù ghét mà hoàng thất Venta dành cho bà rõ hơn bao giờ hết. Dẫu thái phi là mẹ đẻ của hoàng đế, song nhưng mối ngờ vực về đức hạnh đeo bám suốt từng đó năm vẫn khiến bà không được an nghỉ ở bên cạnh tiên đế Huyma hay hưởng những lễ nghi tương xứng. Thậm chí, nếu trưởng công chúa Nubar không can thiệp, hội đồng hoàng gia đã không cho phép thi thể của thái phi được làm lễ thanh tẩy ở điện thờ Médina.

Vào ngày đầu tiên sau khi thái phi qua đời, công chúa nhỏ đã khóc suốt cả buổi tối khi không tìm thấy mẹ. Cuối cùng, người ta đưa cô bé đến chỗ nàng chỉ bởi nàng là người duy nhất mà con bé đòi gặp. Hela thường chơi đùa với Ruza từ khi em còn ẵm ngửa, thế nên vừa gặp được nàng, em đã luôn miệng đòi nàng dắt đi đến chỗ thái phi Hatice. Những câu hỏi ngây ngô và ngọng nghịu của Ruza khiến nàng càng thương em lẫn thái phi hơn. Nàng không nỡ nói ra sự thật rằng người đã qua đời, rằng cả nàng, em hay hoàng đế sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy thái phi cười hiền hậu nữa. Hela đã ôm Ruza vào lòng, nàng vừa an ủi em, vừa an ủi chính mình và cả hai cùng khóc nức nở vì nỗi xót thương cho người quá cố cho đến lúc mệt lả. Rồi nàng hát ru cho công chúa nhỏ nghe, tựa như cách thái phi từng làm vào mỗi tối. Đó là một đêm rất dài, bởi nàng gần như không thể chợp mắt chỉ để trông chừng cho Ruza được ngon giấc và cầu nguyện thánh thần dẫn dắt cho linh hồn của mẹ em – người phụ nữ mà nàng cũng dành cho sự kính yêu, tôn trọng chẳng thua kém gì người mẹ ruột.

Trời đổ mưa không ngớt suốt những ngày cả cung điện chìm trong bầu không khí tang tóc. Mọi cảnh vật đẹp đẽ giờ đều trở nên ảm đạm. Những định kiến khắt khe từ hoàng thất về quá khứ của thái phi lẫn dị nghị của dân chúng vẫn khiến hội đồng hoàng gia tranh luận gay gắt. Các hoàng thân đều muốn tang lễ được diễn ra càng sớm càng tốt, miễn sao họ có thể đưa thi thể của thái phi Hatice ra khỏi kinh đô Virat cũng như xóa bỏ mọi thứ liên quan đến bà ở cung điện này thật nhanh chóng. Với họ, để cứu vớt cho danh dự của tiên đế Huyma thì bà cần phải bị lãng quên. Dự định đó thật tàn nhẫn, Hela nghĩ vậy, nó làm nàng giận run lên, song nàng lại chưa đủ quyền uy để bác bỏ nó một cách công khai. Nhưng dẫu không thể bác bỏ hay thuyết phục được hội đồng hoàng gia, thì nàng vẫn có cách của riêng mình để ngăn họ biến điều đó thành sự thực. Vào ngày thứ hai của tang lễ, nàng phủ chiếc khăn thêu màu đen tuyền lên đầu, che đi mái tóc đã gỡ hết trang sức của mình để đến Médina. Nàng đến nơi linh thiêng ấy và xin phép các tu sĩ cho mình được thực hiện nghi lễ cầu nguyện cho thái phi Hatice. Nàng làm vậy không phải chỉ bởi tể tướng Ibuntal đã yêu cầu mà còn bởi bản thân nàng muốn dám chắc rằng sẽ không ai đưa thái phi rời khỏi điện thờ trước khi hoàng đế trở về. Đấy có lẽ là một hành động khiến nhiều người trong hội đồng hoàng tộc phật lòng, song linh cảm mơ hồ lại mách bảo nàng rằng nàng đang làm điều đúng đắn.

Việc cầu nguyện của Hela diễn ra trong nhiều ngày, nàng viện cớ rằng mình đang làm đúng theo phong tục của xứ Aryssia. Và sự có mặt của nàng cùng nghi lễ mà nàng cử hành ở Médina đã trở thành lý do duy nhất cản trở hội đồng hoàng gia đưa thái phi đến Citadel – nơi có lăng mộ của hoàng tộc dành cho những người phụ nữ phạm phải tội lỗi không thể dung thứ. Vào ngày cuối cùng của lễ cầu nguyện, từ sáng sớm, Hela đã nghe được tiếng tù và vang lại từ đằng xa, xuyên qua những lớp tường và cửa sổ của điện thờ. Dù thứ âm thanh chiến trận ấy đã bị mưa gột sạch nét uy dũng, song nó vẫn là một dấu hiệu cho nàng biết rằng hoàng đế đã trở về. Nàng đứng nép người sau cây cột đá, đôi mắt nhìn theo bóng dáng phu quân. Ngài vội vã xuống ngựa, cả thân mình người ướt sũng nước mưa. Hoàng đế chẳng còn bận tâm đến những lễ nghi, ngài chạy đến gian phòng đặt thi thể của mẹ mình với khuôn mặt thất thần, rồi ngài chỉ đứng lặng yên rất lâu để ngắm nhìn bà lần cuối.

Chưa bao giờ nàng chứng kiến ngài buồn tới vậy.

===

(*) Ya Rouhi: Một từ tiếng Arab, có nghĩa "Người là linh hồn của ta"

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net