chuong 1 - qtmar
khác. Chúng ta sẽ thảo luận việc phân tích marketing kỹ hơn ở các chương tiếp theo.
4.1.2. Hoạch định marketing
Thông qua việc hoạch định chiến lược, công ty quyết định là mình muốn làm gì với
mỗi đơn vị kinh doanh. Việc hoạch định marketing liên quan đến quyết định về chiến lược
marketing sẽ giúp công ty đạt được các mục tiêu chiến lược chung. Một kế hoạch marketing
chi tiết là cần thiết cho mỗi đơn vị kinh doanh, sản phNm hoặc nhãn hiệu.
Chiến lược marketing là logic marketing theo đó công ty hy vọng đạt được các mục
tiêu marketing của mình. N ó bao gồm những chiến lược cụ thể cho các thị trường mục tiêu,
định vị, phối thức marketing và mức độ chi tiêu marketing. Trong mỗi phần, nhà hoạch định
cần giải thích mỗi chiến lược đáp ứng như thế nào với các đe dọa, cơ hội và những vấn đề
quan trọng trong bản kế hoạch.
Các phần khác của kế hoạch marketing vạch ra chương trình hành động trong việc thực
hiện chiến lược marketing cùng với những chi tiết của ngân sách marketing. Phần cuối cùng
vạch ra việc kiểm soát có thể được sử dụng để kiểm soát tiến trình và ra các quyết định điều
chỉnh.
4.1.3. Thực hiện marketing
Việc hoạch định chiến lược tốt chỉ là điểm khởi đầu của marketing thành công. Một
chiến lược marketing tốt hay không có ít giá trị nếu công ty không thành công khi triển khai
chiến lược một cách đúng đắn. Thực hiện marketing là một tiến trình theo đó kế hoạch
marketing được cụ thể hóa thành những hành động nhằm đạt được các mục tiêu marketing.
Việc thực hiện liên quan đến những hoạt động hàng ngày, hàng tháng nhằm duy trì kế hoạch
marketing vận hành. Trong khi việc hoạch định marketing liên quan đến câu hỏi cái gì và tại
sao của các hoạt động marketing thì việc thực hiện marketing đặt ra các câu hỏi ai, ở đâu, khi
nào và thế nào.
N hiều nhà quản trị nghĩ rằng “làm đúng” (tức là thực hiện đúng theo kế hoạch) cũng
quan trọng thậm chí là quan trọng hơn là “làm một việc đúng” (lập kế hoạch chiến lược đúng)
Vấn đề sẽ nằm ở cả hai yếu tố này. Tuy nhiên, công ty có thể đạt được nhiều lợi thế cạnh tranh
thông qua việc thực hiện hiệu quả. Một công ty có thể có chiến lược về cơ bản như các đối thủ
37
cạnh tranh, nhưng phải thực hiện chiến lược đó trên thị trường nhanh hơn và tốt hơn mới có
thể mang lại thành công.
Việc thực hiện marketing thành công phụ thuộc vào việc công ty phối hợp nhân sự của
mình như thế nào, cấu trúc tổ chức, hệ thống quyết định và khen thưởng và văn hóa của công
ty tích hợp vào chương trình hành động một cách nhất quán nhằm hỗ trợ cho chiến lược của
công ty. Ở tất cả các cấp độ, công ty phải có nhân sự có những kỹ năng cần thiết, có động cơ
và có các đặc tính cá nhân phù hợp. Cấu trúc tổ chức chính thức đóng một vai trò quan trọng
trong thực hiện chiến lược marketing.
Cuối cùng, để triển khai thực hiện thành công, chiến lược marketing của công ty phải
phù hợp với văn hóa của công ty, hệ thống giá trị và niềm tin được chia sẻ bởi những thành
viên của tổ chức. Một nghiên cứu của những công ty thành công nhất ở Mỹ tìm ra rằng những
công ty này có nền văn hóa được xây dựng xung quanh các sứ mệnh định hướng thị trường. Ở
các công ty như Wal-Mart, Microsoft, N ordstrom, Citicorp, P&G và Walt Disney: “nhân viên
chia sẻ quan điểm mạnh mẽ rằng họ biết tận trong lòng cái gì là đúng và hay cho công ty của
mình”.
4.1.4. Tổ chức các hoạt động marketing
Công ty phải thiết kế tổ chức marketing để có thể thực hiện tốt nhất chiến lược
marketing và các kế hoạch marketing. N ếu công ty rất nhỏ, một người có thể đảm nhận tất cả
các khâu từ nghiên cứu, bán hàng, quảng cáo, dịch vụ khách hàng và những công việc
marketing khác. Khi công ty phát triển rộng ra, bộ phận marketing sẽ xuất hiện đảm nhận việc
hoạch định và thực hiện các hoạt động marketing. Trong các công ty lớn, bộ phận này có thể
bao gồm nhiều chuyên gia, như chuyên gia quản trị sản phNm, thị trường, bán hàng, nghiên
cứu thị trường, quảng cáo và nhiều chuyên gia trong các lĩnh vực khác.
Các bộ phận marketing hiện đại có thể được sắp xếp theo nhiều cách. Hình thức chung
nhất của tổ chức marketing là tổ chức theo chức năng, trong đó các hoạt động marketing
khác nhau được quản lý bởi một nhà quản trị chuyên gia về chức năng đó ví dụ như một nhà
quản trị bán hàng, một nhà quản trị quảng cáo, nhà quản trị phụ trách mảng nghiên cứu
marketing, nhà quản trị phục trách dịch vụ khách hàng hoặc nhà quản trị sản phNm mới.
Một công ty kinh doanh trên thị trường toàn cầu thường sử dụng cơ cấu tổ chức theo
địa lý theo đó các nhân viên bán hàng và marketing được phân bổ cho các quốc gia, các vùng
địa lý cụ thể. Tổ chức theo địa lý cho phép nhân viên thực hiện trên phạm vi địa lý của mình,
tìm hiểu tốt nhất khách hàng trên địa bàn của mình và làm việc với chi phí đi lại tối ưu nhất về
cả thời gian lẫn tiền bạc.
Công ty với nhiều sản phNm hoặc nhãn hiệu rất khác nhau thường tạo ra một tổ chức
quản trị theo sản phẩm. Sử dụng cách tiếp cận này, một nhà quản trị sản phNm phát triển và
thực hiện một chiến lược và chương trình marketing hoàn chỉnh cho sản phNm hoặc nhãn hiệu
cụ thể. Việc quản trị sản phNm trước hết xuất hiện ở P&G vào năm 1929. Một mặt hàng mới là
nhãn hiệu Camay thành công trên thị trường và một nhà quản trị điều hành trẻ của P&G được
cử để dành toàn tâm sức vào việc phát triển và cổ động sản phNm này. Và nhà quản trị này đã
thành công và công ty bắt đầu nhanh chóng gia tăng các nhà quản trị sản phNm. Từ đó, nhiều
công ty, đặc biệt là các công ty kinh doanh sản phNm tiêu dùng đã thiết lập tổ chức quản trị
theo sản phNm. Tuy nhiên, những thay đổi gần đây trong môi trường marketing khiến nhiều
công ty nghĩ lại vai trò của các nhà quản trị sản phNm. N hiều công ty nhận ra rằng môi trường
marketing ngày nay ít chú trọng vào nhãn hiệu và tập trung nhiều hơn vào khách hàng. Họ
38
đang chuyển sang việc quản trị giá trị khách hàng, bỏ quan điểm chỉ quản trị tính sinh lợi của
sản phNm sang quản trị tính sinh lợi theo khách hàng.
Đối với các công ty bán một dòng sản phNm đến nhiều loại thị trường và khách hàng
khác nhau có những nhu cầu và sở thích khác nhau, tổ chức quản trị theo khách hàng hoặc
theo thị trường có thể sẽ tốt hơn. Tổ chức quản trị theo thị trường cũng tương tự như tổ chức
quản trị theo sản phNm. Các nhà quản trị thị trường có trách nhiệm trong việc phát triển chiến
lược marketing và kế hoạch cho thị trường hoặc khách hàng cụ thể của mình. Lợi thế chủ yếu
của hệ thống này là công ty được tổ chức xung quanh nhu cầu của các phân đoạn khách hàng
cụ thể.
Các công ty lớn sản xuất nhiều sản phNm khác nhau và kinh doanh trên nhiều vùng địa
lý khác nhau với các thị trường khách hàng khác nhau thường sử dụng kết hợp các cách thức
tổ chức theo chức năng, địa lý, sản phẩm và thị trường. Điều này đảm bảo rằng mỗi chức
năng, sản phNm và thị trường tiếp nhận sự quan tâm, chú ý của công tác quản trị đối với phạm
vi mình. Tuy nhiên, nó cũng có thể chi phí khá đắt và giảm sự linh hoạt của tổ chức. Tuy vậy,
các lợi ích của việc chuyên môn hóa về mặt tổ chức thường bù đắp được các hạn chế.
4.1.5. Kiểm soát các hoạt động marketing
Vì có nhiều vấn đề bất ngờ xuất hiện trong triển khai kế hoạch marketing, bộ phận
marketing phải thực hiện việc kiểm tra marketing thường xuyên. Kiểm tra marketing liên quan
đến việc đánh giá các kết quả của chiến lược và kế hoạch marketing và thực hiện các hành
động điều chỉnh nhằm đảm bảo đạt được các mục tiêu.Quản trị trước hết là thiết lập các mục tiêu marketing. Sau đó đo lường kết quả của nó
và đánh giá các nguyên nhân của sự khác biệt giữa thành tích thực tế và thành tích mong đợi.
Cuối cùng việc quản trị thực hiện các hoạt động điều chỉnh nhằm xóa bỏ các khoảng lệch giữa
mục tiêu và kết quả. Điều này đòi hỏi thay đổi chương trình hoạt động và thậm chí thay đổi
mục tiêu.
Kiểm tra các hoạt động vận hành liên quan đến việc kiểm soát thành tích liên tục theo
kê hoạch hàng năm và thực hiện các hoạt động điều chỉnh khi cần thiết. Mục đích làm nhằm
đảm bảo rằng công ty đạt được doanh thu, lợi nhuận và các mục tiêu khác được đưa ra trong
kế hoạch năm. N ó cũng liên quan đến việc xác định tính sinh lợi của các sản phNm khác nhau,
các vùng địa lý khác nhau, thị trường và kênh phân phối khác nhau.
Kiểm tra chiến lược liên quan đến việc tìm hiểu xem liệu chiến lược cơ bản của công
ty có phù hợp với các cơ hội của nó không.
Chiến lược marketing và chương trình marketing có thể nhanh chóng trở nên lỗi thời và mỗi công ty nên đánh giá lại định kỳ toàn bộ cách tiếp
cận của mình trên thị trường. một công cụ quan trọng cho việc kiểm tra chiến lược là rà soát
marketing (marketing audit). Rà soát marketing là việc đánh giá định kỳ, độc lập, hệ thống và
hiểu biết về môi trường, các mục tiêu, chiến lược và các hoạt động của công ty để xác định các
vấn đề và các cơ hội. Việc rà soát cung ứng đầu vào rất tốt cho kế hoạch hành động nhằm cải
thiện năng lực của công ty.
Rà soát marketing bao gồm tất cả các lĩnh vực marketing quan trọng của một hoạt
động kinh doanh, không chỉ một vài nơi có vấn đề. N ó đánh giá môi trường marketing, chiến
lược marketing, tổ chức marketing, hệ thống marketing, phối thức marketing và tính sinh lợi
và năng suất marketing. Việc rà soát thường được thực hiện bởi một bộ phận bên ngoài của
công ty, có kinh nghiệm và khách quan (các công ty kiểm toán).
4.2. Tiến trình sáng tạo và phân phối giá trị
N hiệm vụ của bất kỳ việc kinh doanh nào cũng nhằm cung ứng giá trị cho thị trường
một cách sinh lợi. Có ít nhất hai quan điểm về tiến trình cung ứng giá trị. Quan điểm truyền
thống cho rằng công ty làm ra cái gì đó và bán nó (hình a). Chẳng hạn, Thomas Edison phát
minh ra máy hát và sau đó thuê người sản xuất nó và bán nó cho thị trường. Với quan điểm
này, marketing diễn ra trong nửa sau của tiến trình cung ứng giá trị. Quan điểm truyền thống
giả định rằng công ty biết cái gì cần sản xuất và rằng thị trường sẽ mua đủ số lượng để công ty
tạo ra lợi nhuận.Các công ty theo quan điểm truyền thống này có nhiều cơ hội thành công trong nền
kinh tế khan hiếm hàng hóa, nơi mà người tiêu dùng không đòi hỏi nhiều về chất lượng, đặc
tính hay kiểu dáng của sản phNm. N hưng quan điểm truyền thống về tiến trình kinh doanh sẽkhông vận hành trong nền kinh tế cạnh tranh nơi cá nhân đối mặt với các lựa chọn đa dạng.
“Thị trường đại chúng” nay đã chia nhỏ ra thành nhiều thị trường, mỗi thị trường đó lại có
mong muốn, cảm nhận, sở thích và các tiêu chuNn mua hàng khác nhau. Các đối thủ cạnh
tranh nhanh nhạy phải thiết kế những cung ứng phù hợp với các thị trường mục tiêu được xác
định rõ ràng.
Tiến trình cung ứng giá trị
N iềm tin cốt lõi của quan điểm mới về tiến trình kinh doanh đặt marketing vào điểm
khởi đầu của tiến trình hoạch định. Thay vì chú trọng vào việc sản xuất và bán, các công ty tự
xem mình là một phần của tiến trình sáng tạo và cung ứng giá trị (hình b). Tiến trình này bao
gồm ba phần.
Phần thứ nhất, lựa chọn giá trị, người làm marketing phải làm trước khi sản phNm
được ra đời. Lực lượng marketing phải phân đoạn thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu phù
hợp và phát triển định vị giá trị cho cung ứng đó. Công thức STP (phân đoạn, lựa chọn thị
trường mục tiêu và định vị) là cốt lõi của marketing chiến lược.
Một khi đơn vị kinh doanh đã lựa chọn giá trị, bước thứ hai là cung ứng giá trị. Các
đặc điểm của sản phNm hữu hình và dịch vụ phải được chi tiết hóa, giá phải được định ra, và
sản phNm phải được tạo ra và phân phối. Việc phát triển các đặc điểm cụ thể của sản phNm, giá
và phân phối diễn ra ở giai đoạn này và là một phần của marketing chiến thuật.
N hiệm vụ trong giai đoạn thứ ba là truyền thông giá trị. Ở đây marketing tác nghiệp
diễn ra với việc sử dụng lực lượng bán hàng, khuyến mãi, quảng cáo và các công cụ cổ động
khác để thông báo cho thị trường về sản phNm.
N hư trong (hình b), tiến trình marketing bắt đầu trước khi có sản phNm và tiếp tục khi
nó đang được phát triển và sau khi nó ra đời. N gười N hật đã phát triển quan điểm này bằng
cách đưa ra các khái niệm như:
- Thời gian phản hồi khách hàng bằng 0: phản hồi khách hàng phải được thu thập liên
tục sau khi mua để biết được làm cách nào cải tiến sản phNm và các hoạt động
marketing của mình.
- Thời gian cải tiến sản phNm bằng 0: công ty phải đánh giá tất cả ý tưởng cải tiến của
nhân viên và khách hàng và đưa ra những cải tiến khả thi và có giá trị nhất càng nhanh
càng tốt.
- Thời gian mua hàng bằng 0: công ty phải tiếp nhận các bộ phận các nhà cung ứng liên
tục thông qua cam kết JIT với các nhà cung ứng. Bằng cách giảm tồn kho, công ty có
thể giảm chi phí của mình.
- Thời gian sản xuất lắp đặt bằng 0: công ty phải có thể sản xuất bất kỳ sản phNm nào
của mình ngay sau khi đặt hàng, mà không đối mặt với thời gian hoặc chi phí lắp đặt
cao.
- Không có sai sót: các sản phNm phải có chất lượng cao và không có sai sót.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net