CPDT508B

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng
gia CNTT

Nguồn nhân lực - một trong những yếu tố chính để phát triển CPĐT vẫn là vấn đề khó khăn, không chỉ thiếu số lượng mà còn hạn chế về mặt chất lượng. Kiến thức của hầu hết sinh viên CNTT ra trường đều thiếu, từ kỹ năng làm việc nhóm, tiếp cận quy trình chất lượng và nhất là trình độ ngoại ngữ. Cần phải quan tâm đến nguồn nhân lực và quan tâm hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ. Nhà nước đã và đang đầu tư, triển khai về dự án CNTT, tin học hoá quản lý hành chính nhà nước, tiến tới một nền hành chính điện tử, chú trọng, bồi dưỡng các kỹ sư CNTT trong các trường đại học, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia vào quá trình thực hiện CPĐT.

2.2.2 Người tiêu dùng

Số lượng người tiêu dùng quyết định thành bại của sản phẩm hay dịch vụ. Muốn thực hiện và phát triển CPĐT thì đông đảo người dân phải hiểu biết và sử dụng được dịch vụ Iternet. Hơn nữa, vẫn còn khoảng cách giữa việc sử dụng máy tính với việc khai thác các ứng dụng của Internet. Nhiều cơ quan, xĩ nghiệp, phần lớn cán bộ, nhân viên chưa từng dùng máy tính, những người được coi là biết sử dụng máy trên thực tế mới chỉ có thể soạn thảo được văn bản ở trình độ thấp, chưa nói tới việc ứng dụng CNTT vào mục đích quản lý kinh doanh. Một số cơ quan đã kết nối với Internet nhưng hiệu quả sử dụng còn kém, một phần do chưa có kỹ năng sử dụng Internet, một phần do trình độ tiếng anh còn hạn chế.

2.3 Cơ sơ hạ tầng kinh tế xã hội

CPĐT cần một hạ tầng kinh tế xã hội phát triển một cách đồng bộ. Trong đó các vấn đề quan trọng cần lưu ý giải quyết là:

-Mức sống của người dân: mức sống thấp không cho phép đông đảo dân cư tiếp xúc với các phương thức của “kinh tế số hoá”. Nếu chi phí cho một máy tính cá nhân, thiết bị phù trợ, thuê bao Internet, phí truy cập… quá lớn so với mức thu nhập bình quân của một người dân thì lượng người truy cập Internet sẽ ít. CPĐT không thể phát triển trong điều kiện số người dân có khả năng truy cập internet thấp.

-Hệ thống thanh toán tài chính tự động: Ở Việt Nam, việc thanh toán tài chính tự động được triển khai ở mức thấp. Trong khi CPĐT đòi hỏi mạng lưới thanh toán tự động hoàn chỉnh và chính xác, nhưng chúng mới chỉ đáp ứng được một phần của những yêu cầu tốii thiểu. Thẻ thanh toán điện tử chưa được sử dụng rộng rãi do người dân có thói quen sử dụng tiền mặt. Chừng nào mà chúng ta chưa hình thành hệ thống thanh toán tự động, chừng đó tính khả thi của CPĐT cũng như của thương mại điện tử còn nhiều hạn chế.

-Năng suất lao động: Nền kinh tế Internet đòi hỏi một nền sản xuất có năng xuất cao. Tại Việt Nam năng suất lao động còn thấp, cách tổ chức công việc còn thiếu khoa học, còn có người thất nghiệp nên chưa tạo động lực thúc đẩy tiết kiệm cao đọ chi phí vật chất và thời gian, là những mục tiêu căn bản và lưọi ích thiết thực mà CPĐT mạng lại.

2.4 Cơ sở hệ thống chính sách – pháp luật

Do Internet là một lĩnh vực khả mới mẻ ở Việt Nam nên hiện nay hệ thống pháp luật của chúng ta chưa đáp ứng được yêu cầu của CPĐT. Chúng ta đã cố gắng ban hành một số luật như luật giao dịch điện tử, luật CNTT, luật sở hữu trí tuệ. Hàng loạt các vấn đề bảo hộ quyền sở hữu, tính bảo mật của thông tin giao dịch trên Internet, chế tài với hành vi gian lận, vi phạm hợp đồng, phương thức tính thuế đối với các giao dịch điện tử,… chưa được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật liên quan.

Vấn đề pháp lý nhà nước, chính phủ cần phải quan tâm khi ứng dụng CPĐT là vấn đề liên quan đến bản quyền tác giả và xâm phạm tác quyền phần mềm. Như vậy, CPĐT là chủ đề cần quan tâm đến không chỉ trên phương diện kinh tế, kỹ thuật, luật pháp mà các vấn đề pháp lý, chính sách lên quan đến bản quyền, văn hoá xã hội cũng phải được xem xét. Cơ sở pháp lý đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ ứng dụng CPĐT thành công. Một số nhân tố pháp lý trong CPĐT luôn được nhắc tới:

-Tính riêng tư: trở thanh vấn đề quan trọng cho các khách hàng hiện nay. Các điều khoản bảo vệ tính riêng tư được thể hiện ở rất nhiều trang web CPĐT lớn. Có những vấn đề trên cơ sở pháp luật là không đúng đắn nhưng trong xã hội những hành vi đó có thể chấp nhận được và không vi phạm phạm trù đạo đức truyền thống.

-Bản quyền: bảo vệ bản quyền tác giả trên trang web gặp nhiều khó khăn vì thông tin số hoá có thể sao chép dẽ dàng với mức chi phí thấp. Hơn nữa, vấn đề khó khăn là quá trình kiểm soat ai là người có quyền sử dụng bản quyền.

-Tự do truy nhập thông tin: Internet cung cấp cơ hội lớn trong việc cung cấp thông tin cho các đối tượng sử dụng. Tuy nhiên, sự tự do này có thể ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội vì ranh giới giữa các vấn đề bất hợp pháp cũng như thiêud đạo đức trên Internet lúc nào cũng rõ ràng.

Luật giao dịch điện tử: đã được quốc hội thông qua ngày 19/11/2005 và có hiệu lực từ ngày 01/03/2006. Luật gồm 8 chương, 54 điều quy định về thông điệp điện tử; chữ ký điện tử và chứng thực chữ ký điện tử; giao kế và thực hiện hợp đồng điện tử; giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước; an ninh, an toàn, bảo vệ, bảo mật trong giao dịch điện tử; giải quyết tranh cấp và xử lý vi phạm trong giao dịch điện tử,… Phạm vi điều chỉnh chủ yếu là giao dịch điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước, trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại.

Công nhận và bảo vệ hợp đồng điện tử: Nguyên tắc tiến hành giao dịch điện tử được luạt nêu rõ. Lựa chọn giao dịch bằng phương tiện điện tử là tự nguyện của cơ quan, tổ chức, cá nhân, được tự thoả thuận về việc lựa chọn công nghệ để thực hiện giao dịch, không một công nghệ nào được xem là duy nhất trong giao dịch điện tử, đảm bảo bình đẳng và an toàn…

Luật công nhận và bảo vệ hợp đông điện tử: “giá trị của hợp đồng không thể bị phủ nhận chỉ vì hợp đồng đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu . Trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, thông báo dưới dạng thông điệp dữ liệu có giá trị pháp lý như thông báo bằng phương pháp truyền thông”.

Các bên tham gia hợp đồng điện tử có quyền tham gia thoả thuận sử dụng phương tiện điện tử trong giao kết hợp đông, có quyền thoả thuậ về yêu cầu kỹ thuật, chứng thực, các điều kiện đảm bảo tính toàn vẹn, bảo mật liên quan đến hợp đồng điện tử đó. Việc giao kết thực hiện hợp đồng điện tử phải tuân theo quy định của luật này và pháp luạt hợp đông.

Khuyến khích cơ quan nhà nước giao dịch điện tử: Đẩy mạnh ứng dụng tin học vào quản lý hành chính, luật yêu cầu: “căn cứ vào yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tình hình cụ thể, cơ quan nhà nước xác định một lộ trình hợp lý để sử dụng phương tiện điện tử trong hoạt động nội bộ, với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác”.

Tổ chức, cá nhân có quyền lựa chọn phương thức giao dịch với cơ quan nhà nước, nếu cơ quan nhà nước đó chấp nhận giao dịch theo phương tiện truyền thông và phương tiện điện tử.

Khi tiến hành giao dịch điện tử, cơ quan nhà nước phải quy định cụ thể về: định dạng, biểu mẫu của thông điệp dữ liệu; loại chữ ký điện tử; các quy trình bảo đảm tính toàn vẹn, an toàn bí mật của giao dịch điện tử.

Cấm cản trở sử dụng giao dịch điện tử: Luật nghiêm cấm các hành vi cản trở việc lựa chọn sử dụng giao dịch điện tử, cản trở ngăn chặn trái phép quá trình chuyển gửi và nhận thông điệp dữ liệu; thay đổi, xoá, huỷ, giả mạo, sao chép, tiết lộ, hiển thị, di chuyển trái phép một phần hoặc toàn bộ thông điệp dữ liệu; tạo ra hoặc phát tán chương trình phần mềm (virus) làm rối loạn thay đổi, phả hoại hệ thống điều hành; tạo ra thông điệp dữ liệu nhằm thực hiện hành vi trái pháp luật; gian lận; mạo nhận; chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép chữ ký điệ tử của người khác,…

Tổ chức, cá nhân không được sử dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thông tin về bí mật đời tư hoặc thông tin cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm soat s được trong giao dịch điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Theo luật giao dịch điện tử, nhà nước công nhận giá trị pháp lý chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài nếu chũ ký hoặc chứng thư điện tử đó có độ tin cây tương đương cới độ tin cập của chữ ký và chứng thư điện tử theo quy định của pháp luật. Việc xác định mức độ tin cậy của chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài phải căn cứ vào các tiêu chuẩn quốc tế đã được thừa nhận, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các quy định liên quan khác.

2.5 Cơ sở an toàn và bảo mật

Khi tham gia vào Internet, vấn đề đặt ra là phải tăng cường các biện pháp an tòan bảo mật. An toàn luôn được coi là vấn đề chủ yếu trong thực hiện CPĐT. Theo hiệp hội an toàn máy tính quốc gia NCSA (National Computer Security Association) vấn đề an toàn CPĐT gồm các khía cạnh:

-Tính xác thực: Trong giao thức TCP/IP, phương tiện để nhận diện một người sử dụng là mật mã. Các địa chỉ IP có thể được lọc để phát hiện truy nhập trái phép, nhưng không thể nhận dạng khi một gói tin thực sự được gửi từ một miền nhất định. Thông qua công nghệ gọi là sảo thuật IP, kẻ đột nhập có thể gửi một mẩu tin đến từ một miền xác định nào đó, trong khi mẩu tin đó không có thật. Hoặc kẻ đột nhập có thể thay thế một tên miền trên một tràn web và như vậy các lần truy nhập sau đó người dùng truy nhập với nội dung khác mà chúng đã thay đổi.

-Tính riêng tư: Các hành vi vi phạm tính riêng tư có thể xuất hiên trong và sau khi chuyển giao thông tin. Khi một mẩu tin được nhận, người gửi phải đảm bảo rằng nội dung của mẩu tin đó hoàn toàn bí mật. Ở đây thuật ngữ “nội dung” được hiểu theo nghĩa rộng nhất. Ví dụ một người truy cập vào một tràn web, thì giao dịch được nghi lại. Bản nghi lại các thông tin ngày tháng, thời gian, địa chỉ của người sử dụng và tên miên của của trang trước mà người sử dụng vừa truy nhập. Nếu người sử dụng đang truy cập vào trang web thông qua nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) thì nhà cung cáp dịch vụ Internet có thể giữ mọ trang mà người sử dụng vừa truy cập. Với cùng đặc điểm đó, nhiều trang web thương mại sử dụng tính năng lưu dấu vết để lưu lại thông tin của người sử dụng (mặc dù hầu hết các trường hợp, việc lưu dấu vết đựơc sử dụng hợp pháp). Tuy nhiên nhiều nhà quảng cáo đã sử dụng tính năng lưu dấu vết vô nguyên tắc để theo dõi các thói quen của người sử dụng. Sự đe doạ lớn nhất đối với tính riên tư không phải là các thông tin được lấy từ sự lừa lọc mà từ sự thoả hiệp trong việc tự do cung cấp thông tin của người sử dụng.

-Tính trung thực: TCP/IP có vai trò truyền các gói dữ liệu trong văn bản thuần tuý. Vì các goid tin liên quan đến một mẩu tin cụ thể thường được truyền khi chúng đi từ trạm đến máy chủ và ngược lại, do đó chúng rất dễbị nắm bắt và mô phỏng trong quá trình di chuyển. Ví dụ kẻ đột nhập có thể mô phỏng địa chỉ mà ở đó các nội dung của trang web sẽ được đệ trình. Người sử dụng điền đầy đủ thông tin về thẻ tín dụng của họ vào một mẩu khai báo và gửi đi mà không biết rằng thông tin

đó sẽ được chuyển sang máy chủ của kẻ đột nhập.

Chương 3: Xây dựng cổng thông tin trong Chính phủ điện tử

3.1 Mạng máy tính trong chính phủ điện tử

Mô hình kiến trúc mạng tin học diện rộng của các cơ quan Đảng và Nhà nước có thể bao gồm các cấp như sau:

-Mức A: Cấp xa lộ thông tin.

-Mức B: Cấp Bộ, Tỉnh.

-Mức C: Cấp Sở, Ban, Ngành, quận, huyện, thị hoặc Cục, Vụ, đơn vị thuộc Bộ.

-Mức D: Cấp xã, phường.

3.1.1 Mạng lõi

Cấp xa lộ thông tin là cấp đường trục trên mạng cho phép cung cấp các cổng kết nối tốc độ cao từ Trung ương tới các tỉnh/thành và quận, huyện trong toàn quốc để các mạng máy tính cục bộ của các cơ quan Đảng, Nhà nước tại các cấp kết nối với nhau tạo thành mạng truyền số liệu nội bộ (Intranet).

Mạng tạo ra xa lộ thông tin được gọi là mạng lõi. Có thể có cấu trúc sau:

Hình 3: Cấu trúc mạng lõi mạng chuyên dụng

Giải thích : -Mạng kết nối cáp quang tạo thành vòng Ring để đảm bảo an tòan. Mạng lõi bao gồm 3 nút lớn : Hà Nội, Đà Năng và HCMC. Đây là các POP lõi của mạng truc.

-Mỗi Core PoP có thể sẽ bao gồm: Thiết bị switch và firewall để cung cấp các kết nối tốc độ cao bảo đảm về an ninh đến hệ thống các máy chủ dữ liệu, hệ thống thông tin IP (VoIP), hệ thống quản lý mạng và các máy chủ dịch vụ khác (như DNS, e-mail, web, caching).

Hình 4: Sơ đồ Coreswitch

3.1.2 Mạng chuyên dụng cấp tỉnh

Hình 5: Mạng LAN cơ quan cấp Tỉnh

3.1.3 Mạng chuyên dụng cấp huyện

Hình 6: Mạng LAN cho các cơ quan cấp huyện thị

3.1.4 Mạng chuyên dụng cấp thành phố

Hình 7: Mạng LAN cho các cơ quan cấp xã phường

3.1.5 Mô hình cổng thông tin điện tử và trung tâm tích hợp dữ liệu của tỉnh

Hệ thống được chia thành các vùng khác nhau:

-Vùng dữ liệu: là nơi đặt các server chứa dữ liệu và ứng dụng, bao gốm LDAP server, Database server, Application server, Backup server. Vùng này được bảo vệ bởi Domain Firewall với vùng DMZ.

-Vùng DMZ (vùng cách ly): vùng này đặt các server như DNS, mail server, webserver, và hệ thống khung portal được đặt tại đây. Việc truy nhập đến vùng DMZ phải thông qua Protocol Firewall.

-Tại mỗi đơn vị Sở Ban Ngành, UBND Huyện, Thị tham gia hệ thống, môi trường vận hành hệ thống ứng dụng là mạng LAN của đơn vị. Các đơn vị truy cập đến Cổng thông qua hệ thống mạng internet với đường truyền ADSL.

Hình 8: Mô hình vật lý Cổng điện tử và Trung Tâm dữ liệu

3.2 Khái niệm về cổng thông tin điện tử (portal)

3.2.1 Khái niệm về cổng điện tử (portal)

Cổng thông tin điện tử là điểm truy cập tập trung và duy nhất; tích hợp các kênh thông tin các dịch vụ , ứng dụng; là một sản phẩm hệ thống phần mềm được phát triển trên một sản phẩm phần mềm cổng lõi (Portal core), thực hiện trao đổi thông tin, dữ liệu với các hệ thống thông tin, đồng thời thực hiện cung cấp và trao đổi với người sử dụng thông qua một phương thức thống nhất trên nền tảng Web tại bất kỳ thời điểm nào và từ bất kỳ đâu.

Các đặc trưng cơ bản của một Cổng thông tin (nhằm phân biệt với Trang thông tin điện tử):

-Khả năng phân loại nội dung: Portal phải cho phép tổ chức nội dụng và ứng dụng theo nhiều cách khác nhau để đáp ứng các yêu cầu không giống nhau của các nhóm (phân loại theo người sử dụng, phòng ban, đơn vị) bên trong một tổ chức.

-Khả năng Tìm kiếm và chỉ mục: Portal phải cung cấp hoặc tích hợp được các hệ thống tìm kiếm và đánh chỉ mục các văn bản, tài liệu để giúp người sử dụng có thể nhanh chóng truy xuất đến những thông tin họ cần.

-Khả năng quản lý nội dung: Portal phải cung cấp các hệ thống kiểm soát nội dung, đây sẽ là một tính năng hữu hiệu cho phép người sử dụng không cần hiểu biết về kỹ thuật có thể tạo lập được nội dung. Portal cũng phải kiểm soát được các truy xuất đến từng nội dung để đảm bảo chỉ những người có quyền mới có thể truy nhập được các văn bản mà họ được cấp phép.

-Cá thể hóa: cho phép thiết lập các thông tin khác nhau, trình bày theo các cách khác nhau, phục vụ cho các loại đối tượng sử dụng khác nhau theo các yêu cầu cá nhân như sở thích, thói quen, yêu cầu nghiệp vụ. Mỗi cá nhân có thể tự chỉnh sửa, tái lập lại các hiển thị thông tin, ứng dụng, nội dung theo sở thích hoặc để phù hợp với công việc của mình.

-Tích hợp và liên kết nhiều loại thông tin: cho phép tích hợp nội dung thông tin từ nhiều nguồn tin khác nhau nhằm phục vụ nhiều đối tượng sử dụng theo ngữ cảnh sử dụng dựa vào kết quả cá nhân hóa thông tin. Portal cung cấp một môi trường tích hợp toàn bộ các ứng dụng Web đang có. Khía cạnh tích hợp này bao gồm hỗ trợ truy cập một lần (một cổng), kể cả các tài nguyên, trang Web bên ngoài, hỗ trợ các dịch vụ Web và có thể hiểu Portal mạng lại một ứng dụng được tích hợp.

-Xuất bản thông tin: Thu thập và bóc tách thông tin định chuẩn từ nhiều nguồn khác nhau và có cơ chế xuất bản thông tin theo chuẩn. Hệ thống tin tức được cập nhật cho hệ thống Portal bằng nhiều hình thức như sau.

-Thông qua hệ thống biên tập viên sử dụng các tính năng của hệ thống CMS để xậy dựng nội dung.

-Cơ chế tích hợp tin tức từ website khác bằng cách áp dụng các chuẩn trao đổi tin tức thông dụng như RSS (RDF Site Summary) và/hoặc Atom feed.

-Hỗ trợ RSS cả hai chiều Người dùng (Client ) và nhà cung cấp (Server) cho phép các website mức dưới cũng có thể dùng lại tin tức của Cổng bằng cách sử dụng cùng cơ chế này.

-Thông qua các hệ thống chuẩn hỗ trợ sẵn của hệ thống Portal như web service, web cliping.

-Định dạng RSS (Rich Site Summary) được xây dựng dựa trên ngôn ngữ đánh dấu mở rộng XML nhằm tạo ra các kênh thông tin (feed) và chuyển tới cho người đọc. RSS được Netscape phát triển vào cuối những năm 90s, hoạt động theo hướng tinh giản, rút gọn các trang điện tử (chỉ lấy tiêu đề, loại bỏ ảnh, định dạng trang trí). Nội dung này có thể được chuyển trực tiếp tới người đọc hoặc gắn trên các website khác với đường dẫn ngược trở lại website ban đầu.

-Đăng nhập một lần (single sign-on): cho phép người dùng chỉ cần đăng nhập một lần, sau đó truy cập và sử dụng tất cả các dịch vụ/nghiệp vụ đã và sẽ đăng ký/cấp phép trên cổng thông tin. Portal phải tích hợp hoặc cung cấp hệ thống đăng nhập một lần (một cửa). Nói cách khác, Portal sẽ lấy thông tin về người sử dụng từ các dịch vụ thư mục như LDAP (Lightweight Directory Access Protocol), NDS (Domain Name System) hoặc AD (Active Directory).

-Quản trị cổng thông tin: cho phép người quản trị, người dùng tự xác định, điều chỉnh cách thức hiển thị kênh thông tin, nội dung thông tin và định dạng chi tiết đồ họa, đồng thời cho phép người quản trị định nghĩa các nhóm người dùng, quyền truy cập và sử dụng thông tin khác nhau.

-Quản lý người dùng: cho phép quản trị người sử dụng dựa trên tiêu chuẩn LDAP để phân quyền sử dụng theo vai trò thống nhất và xuyên suốt toàn bộ hệ thống.

-Hỗ trợ nhiều môi trường hiển thị thông tin: cho phép hiển thị nội dung thông tin trên nhiều loại thiết bị khác nhau như màn hình máy tính PC, thiết bị di động (PDA, Smart phone) một cách tự động. Portal phải khả năng vận hành đa nền, đa phương tiện. Cho phép người sử dụng có thể sử dụng nhiều hệ điều hành khác nhau, thông quan các trình duyệt web khác nhau để truy xuất vào Portal. Bao gồm cả các phương tiện như điện thoại di động, các loại máy tính cầm tay, PDAs (Personal Digital Assitant) không dây.

-Khả năng bảo mật: Portal phải cung cấp được các hệ thống xác thực và cấp phép rất mạnh. Bất kỳ sự tích hợp các hệ thống nào, với cơ chế đăng nhập một lần, đều phải được bảo mật và ngăn chặn các giao dịch không hợp lệ của người sử dụng trên các ứng dụng khác nhau.

-Các tính năng của một ứng dụng lớn: Portal đáp ứng được các tính năng chuẩn của một phần mềm ứng dụng lớn như: Khả năng đáp ứng được dư thừa dữ liệu, khả năng chịu lỗi, khả năng cân bằng tải (chia luồng xử lý), khả năng sao lưu.

-Khả năng cộng tác: Portal là một môi trường làm việc cộng tác được tạo ra nhờ các kênh dịch vụ được tích hợp sẵn như:

-Email: Hệ thống email nội bộ hoặc tích hợp với một ứng dụng Mail Server.

-Chat: Hỗ trợ trao đổi trực tuyến với các thành viên, có thể tuỳ biến theo yêu cầu của sở

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net

#cpdt508b