Phần Không Tên 11

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

binh yên

Chỉ khi nào tâm ta không còn những khắc khoải mong cầu hay chống đối, chấp nhận và tùy thuận mọi hoàn cảnh thì ta mới nếm được chất liệu bình yên và hạnh phúc chân thật.

Cảnh bình tâm cũng bình

Tâm ta vốn gắn kết chặt chẽ với ngoại cảnh, vì hai nhu cầu hưởng thụ căn bản nhất của con người là tiện nghi vật chất và tiện nghi tinh thần (danh dự) đều nằm ở bên ngoài. Thế nên, ngày đêm ta không ngừng cầu mong những điều kiện thuận lợi luôn đến với mình. Chỉ khi nào những ước nguyện của ta đều được thành tựu, hay ít nhất không có bất kỳ khó khăn nào xảy ra thì ta mới thấy lòng bình yên. Rồi chẳng bao lâu những điều bất như ý lại ập đến, hoặc chính trong ta phát sinh những mong cầu khác nên cái bình yên kia không còn cơ sở để tồn tại được nữa. Cảnh không bình yên thì tâm cũng không bình yên.

Ta dễ thấy lòng bình yên mỗi khi rong ruổi đến một vùng quê xa xôi hẻo lánh, hay một miền sơn cước tĩnh mịch nào đó. Vừa tạm gác lại những lo toan tất bật của cuộc sống, vừa được nuôi dưỡng trong những cảnh vật hiền hòa và tươi mát, lại vừa cảm nhận được sự sống mà ta đang tiếp xúc ở từng phút giây, nên lòng ta đã thật sự lắng dịu và dừng lại. Nếu ta có chủ ý tìm đến không gian như thế để nuôi dưỡng tâm hồn thì hẳn nhiên ta sẽ trân quý từng khoảnh khắc trôi qua. Nhưng tiếc thay, sự cố gắng cũng chỉ là ý chí. Thói quen bám víu vào những đối tượng đem tới cảm xúc quen thuộc có thể xuất hiện bất ngờ và lấn át cả ý chí. Thế rồi, bỗng nhiên ta thấy mình không thuộc về nơi này nữa, lòng chợt bâng khuâng như kẻ xa lạ. Còn nếu vì bất đắc dĩ mà ta phải rơi vào khung cảnh bình yên thì chắc chắn ta sẽ thấp thỏm như ngồi trên than hồng. Thậm chí, ta còn tìm cách phá tan bầu không gian yên tĩnh cho thoải mái hơn. Nếu không được chuyện trò với ai, ta sẽ nhớ về quá khứ hoặc tưởng tới tương lai để giết bớt thời gian. Cho nên, cảnh bình yên cũng có thể làm cho tâm bình yên, nhưng nếu tâm bị xáo động quá lớn thì cảnh cũng chịu thua.

Bây giờ nhiều người trẻ hay than cuộc sống quá bận rộn, đến nỗi họ không còn thời gian để nghỉ ngơi. Nhưng khi có được những ngày nghỉ thì họ lại kiếm đủ mọi việc để làm. Không đi mua sắm thì họ đi gặp bạn bè; không nấu nướng thì họ lên mạng tìm kiếm thông tin; không xem ti-vi thì họ lang thang ngoài đường. Dường như họ không thể nghỉ ngơi. Tâm tư phải bám vào một cái gì đó, ít nhất là phải nghĩ tưởng đến những điều gì mà họ cho là cần thiết. Như vậy họ mới thấy ổn. Khi nào đuối sức họ mới chịu dừng lại và chìm vào giấc ngủ; hoặc khi nằm trên giường bệnh hay rơi vào một tai nạn khốn đốn họ mới thấy giá trị của sự nghỉ ngơi. Tâm bình yên trong trường hợp này vẫn còn dựa vào điều kiện của hoàn cảnh, vẫn nằm ngoài sự chủ động của ta. Nhiều người sau khi trải qua những tai nạn lớn lao, cảm nhận được giá trị của cuộc sống, ý thức được điều gì đáng giữ gìn, nên họ tưởng rằng mình đã bước sang khúc quanh khác của cuộc đời. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn ngủi thì những hấp dẫn của ngoại cảnh lại đưa họ trở về với tâm thức cũ. Họ lại tiếp tục tranh đấu và đầy mệt mỏi như chưa từng ngộ ra điều gì cả.

Có một vị tên là Huệ Khả đến cầu đạo với thiền sư Bồ Đề Đạt Ma. Trải qua nhiều ngày mà Huệ Khả vẫn chưa thấy thiền sư trao truyền những kinh nghiệm tu tập quan trọng như mong đợi, lòng chợt hoang mang. Huệ Khả liền lấy hết can đảm, bước tới chỗ thiền sư và quỳ xuống xin ban cho phương pháp giúp tâm yên ổn. Thiền sư bảo: "Đưa tâm không yên đây ta giúp cho". Huệ Khả nhìn kỹ lại mình để tìm kiếm tâm không yên, rồi thưa: "Dạ, con đã tìm nhưng không thấy ạ". Thiền sư cười đáp: "Ta đã yên tâm cho con rồi đấy".

Ngay cả khi ta mong muốn được tiếp nhận những điều hay lẽ phải, tìm học những phương pháp giúp thăng hoa giá trị tâm hồn thì cũng có thể khiến tâm ta không yên, mệt mỏi và khổ sở. Lẽ dĩ nhiên, không ai có thể đưa tâm mình ra cho người khác xem, bởi nó vốn không có hình tướng cụ thể. Huống chi, tâm không yên chỉ là một hiện tượng tâm lý nhất thời, nó không thể giữ nguyên một trạng thái. Nhưng thiền sư lại đề nghị đem tâm không yên ra là vì muốn giúp thiền sinh hiểu rằng: khi lòng còn mong cầu là còn không yên, hết mong cầu thì tự nhiên tâm sẽ yên. Đúng ra, thiền sư chẳng trao truyền phương pháp gì cả, chỉ nhắc thiền sinh quay lại dùng chính cái không yên của mình để tìm ra cái yên. Cái yên không dựa vào điều kiện bên ngoài như thế mới là cái yên chân thật. Tất nhiên, phải thêm nhiều công phu nữa mới giữ vững tâm yên ấy, nhưng đó là khởi điểm rất quan trọng.

Tâm yên cảnh sẽ yên

Khi tâm ta giữ được trạng thái quân bình với chính mình - hài lòng với những gì mình đang có, không mong muốn có thêm cũng không muốn loại trừ bớt - tức là ta cũng đang giữ được thế quân bình với vạn vật xung quanh. Đây chính là nền tảng quan trọng để cho sự yên ổn ra đời. Điều kỳ diệu là khi tâm bình yên ta sẽ thấy mọi đối tượng hay mọi vấn đề ở cung bậc khác, khá chính xác với những gì đang thật sự diễn ra. Bởi tâm bình yên không những rất trong sáng, mà còn có thể kết nối với những năng lượng phóng ra từ chính đối tượng hay vấn đề đang tiếp xúc. Vì vậy, khi tức giận hay yêu đương cuồng nhiệt, ta không thể nào thấy đúng đắn về thực tại. Ta dường như ở trong một thế giới khác.

Khi nhìn những gợn sóng lăn tăn trên mặt hồ, có thể ta nghĩ cái hồ này đang bị xáo động. Hay khi nhìn thấy một màu trắng xóa bao phủ trên ngọn núi, ta lại tưởng ngọn núi này chắc đã già nua. Nhưng đó là cái nhìn hời hợt. Khi tâm bình yên, quan sát kỹ hơn ta sẽ thấy cái xáo động kia chỉ là phần trên mặt hồ bị gió tác động, chứ phía dưới mặt hồ vẫn yên lắng. Ta cũng phát hiện ra cái trắng xóa kia chỉ do tuyết phủ, chứ ngọn núi vốn rất xanh, rất trẻ. Khi tâm bình yên, ta sẽ thấy rõ đâu là hiện tượng đâu là bản thể, đâu là giả tạm đâu là chân thật. Quan trọng hơn hết là ta đã tìm thấy được chính mình - cái tôi thật thà, hồn nhiên đã trôi lạc theo thăng trầm cuộc sống từ bấy lâu nay. Tâm bình yên mới đích thực là tâm chân thật của ta; còn tâm lao xao chỉ là sự biến động trong nhất thời.

Đức Phật đã từng khẳng định: "Nhất thiết duy tâm tạo" - tâm ta như thế nào thì ta sẽ cảm nhận thế giới xung quanh như thế ấy. Đẹp-xấu, cao-thấp, sang-hèn, thuận- nghịch vốn không phải là bản chất của thực tại. Tất cả đều do tham-sân-si của con người dệt lên. Khi được thỏa mãn những mong muốn của mình thì ta nghĩ cuộc đời rất tươi đẹp; còn khi mọi thứ diễn ra trái nghịch với những nguyện vọng của mình thì ta cho rằng cuộc đời thật đáng chán. Trong khi đó, vạn sự vạn vật trên thế gian này và cả vũ trụ bao la đều vận hành theo nguyên tắc rất tự nhiên: nhân quả và duyên sinh. Nó không chiều chuộng ai, cũng không có ý ghét bỏ ai. Chỉ tại ta quá tham lam. Khi nó thuận với ta thì ta mừng rỡ mà không hề ngạc nhiên và từ khước; còn khi nó nghịch với ta thì ta lại hốt hoảng và chống đối. Cho nên, khi nào ta chuyển hóa được những năng lượng mong cầu và chống đối không cần thiết ấy, trả lại bản chất tĩnh lặng mầu nhiệm của tâm hồn, thì ta sẽ thấy thế giới xung quanh mình thật bình yên - rất dễ thương và rất đáng giữ gìn.

Từ tuệ giác sâu sắc, đức Phật cũng đã từng nhấn mạnh: "Tâm bình thế giới bình". Dù thế giới xung quanh ta còn nhiều xáo động, nhưng nếu tâm ta bình yên thì sẽ không bị nó làm cho xáo động theo. Trái lại, năng lượng bình yên trong ta sẽ lên đường xâu kết với những năng lượng bình yên khác đang bàng bạc khắp nơi trên thế giới. Đến khi hội đủ điều kiện thì nó sẽ trở thành hiệu ứng vĩ đại - thế giới bình yên. Thật ra, vạn vật trên khắp hành tinh vốn rất bình yên, chỉ có con người mới không bình yên và đã làm đảo lộn mọi thứ. Nhưng bản chất con người cũng rất bình yên, chỉ vì họ đã để cho những năng lượng tham cầu và chống đối lấn át đi vẻ tự nhiên hiền hòa mà trời đất đã ban tặng. Cho nên, không ai có thể làm cho mọi người trên thế giới này bình yên được cả, đó là vấn đề của mỗi người. Tuy nhiên, năng lượng bình yên trong mỗi người có tính tương tác rất lớn. Nó sẽ giúp cho điều kiện đi tới sự bình yên trong mọi người dễ dàng xảy ra. Vì vậy, năng lượng bình yên của mỗi người luôn rất cần thiết cho gia đình, xã hội, thế giới, và cả vũ trụ nữa.

Trong bài hát "Bình yên", nhạc sĩ Quốc Bảo thật tinh tế khi nhận ra: "Bình yên một thoáng cho tim mềm/ Bình yên ta vào đêm/ Bình yên để đóa hoa ra chào/ Bình yên để trăng cao/ Bình yên để sóng nâng niu bờ/ Bình yên không ngờ/ Lòng ta se sẽ câu kinh bình yên". Khi tâm hồn bình yên, dù chỉ trong một thoáng, những giận hờn hay cố chấp cũng sẽ tan rã. Trong thoáng bình yên ấy, ta đã thấy được những thực tại mầu nhiệm mà thường ngày ta không hề thấy: đóa hoa vừa hé nở, trăng đang lên cao và sóng không ngừng nâng niu bờ. Tuy nhiên, nhạc sĩ lại khẳng định chính năng lượng bình yên của ta trong đêm nay đã khiến cho hoa nở, trăng cao và sóng nâng niu bờ. Đúng là cảnh vật xung quanh vẫn xảy ra theo lẽ tự nhiên của nó, nhưng điều đó không có nghĩa là nó không liên quan gì với con người. Vì vạn sự vạn vật vốn luôn tương tác với nhau kia mà. Khi đóa hoa trong lòng ta đã nở, trăng trong lòng ta đã sáng trong, sóng trong lòng ta đã chấp nhận nâng niu bờ, thì làm sao những thứ bên ngoài ấy không được nuôi dưỡng bởi ta kia chứ? Và chính ta cũng không ngờ khi lòng bình yên thì từ bi bỗng nhiên thức giấc.

Trong bài hát có hai câu rất lạ: "Như từ bao la ta ra đời một kiếp nữa/ Như từ trong nhau lớn lên khôn lên cùng nhau". Phải là người đã đi qua kinh nghiệm thương đau và đã từng chạm tới bến bờ bình yên mới viết được những câu này. Khi tâm hồn bình yên thì chẳng khác gì ta được sinh ra một lần nữa - ý niệm cũ chết đi để nhường chỗ cho ý niệm mới được sinh ra. Đó là con người mới của ta. Tuy nó và con người cũ không phải là hai cái khác biệt, nhưng không thể là một nữa rồi. Vấn đề là ta có thật sự muốn và can đảm để ý niệm giận hờn và thù hận trong ta chết đi, cho ý niệm bao dung và tha thứ được sinh ra không? Nhiều khi nó đã sinh ra rồi mà ta không chịu nhìn nhận. Ta cứ cố bám lấy con người cũ kỹ tàn tạ kia để thỏa mãn cái tôi ích kỷ và yếu đuối của mình. Điều tuyệt vời là cái kiếp mới của ta có được chính nhờ vào cái khổ đau của người kia đem đến. Và khi ta ý thức rằng ta đã từ trong nhau lớn khôn lên thì làm sao có thể oán trách nhau? Cho nên "Tặng nhau nhé tiếng nghe hồn nhiên/ Để quên hết khó khăn chia lìa" - không những tha thứ mà ta còn trân quý giây phút được gặp mặt nhau, hết lòng giúp đỡ nhau tươi tỉnh lại chứ không trách móc hay hơn thua nữa. Chỉ có cõi lòng bình yên mới làm được như thế!

Quả thật, chỉ khi nào tâm hồn ta không còn những khắc khoải mong cầu hay chống đối, chấp nhận và tùy thuận mọi hoàn cảnh, thì ta mới nếm được chất liệu bình yên và hạnh phúc chân thật. Trong giai đoạn ban đầu, nếu thấy khó giữ tâm trước những hoàn cảnh quá trái nghịch, thì ta hãy tạm thời tìm cho mình một không gian đủ an ổn để tịnh dưỡng tâm hồn. Khi tâm hồn đã thật sự bình yên, những phiền não đã lắng đọng và chuyển hóa thì ta cứ mạnh dạn tiếp xúc trở lại với mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng. Dù hoàn cảnh vẫn còn đang xáo trộn, dù đối tượng vẫn chưa hết khó khăn, nhưng với trình độ mới của tâm thức thì ta sẽ nhìn thấy nó không còn là vấn đề ghê gớm nữa. Và chính ta cũng có thể góp phần làm cho tình trạng được thay đổi. Cho nên, nếu biết tâm bình yên chắc chắn cảnh sẽ bình yên thì ta chỉ nên giữ gìn tâm mình mà không cần phải đuổi theo cảnh. Bởi cảnh bình yên mà tâm ta chưa bình yên thì ta cũng chẳng thấy nó bình yên.

lo lắng

Muốn nắm bắt được sự sống, ta phải luyện cho mình có khả năng đặt nỗi lo lắng trong một khuôn khổ thích hợp.

Ngày sau sẽ ra sao?

Do bản năng sinh tồn mà hầu hết các loài động vật đều có khả năng suy đoán những tình huống có thể xảy ra làm ảnh hưởng đến cuộc sống hay cả tính mạng của mình. Như loài thiên nga phải lo tranh thủ cùng bầy di cư về miền Nam trước khi mùa đông đến. Nếu vô tình bị bỏ lại thì nó không thể nào một mình vượt nổi đoạn đường hàng nghìn dặm để về miền ấm áp, và có thể chết vì không thể tìm thấy thức ăn dưới những lớp tuyết dày. Loài tắc kè hoa cũng khẩn trương chuyển đổi màu da cho kịp thích hợp với màu vỏ cây hay màu lá khi thời tiết giao mùa. Tuy nhiên, lúc nào chúng cũng nơm nớp lo sợ những loài chim có cặp mắt tinh anh phát hiện ra sự ngụy trang của chúng. Vì thế, khả năng quan sát của tắc kè hoa cực kỳ nhạy bén, sự di chuyển cũng hết sức nhẹ nhàng và cẩn trọng.

Loài người cũng vậy. Tổ tiên ta từ thuở xa xưa cũng vì lo nghĩ đến tương lai mà học cách quan sát thời tiết, chinh phục thú dữ, cất giữ hạt giống kỹ càng để chuẩn bị tốt cho mùa vụ sau. Cứ thế, sự lo lắng ăn sâu vào huyết mạch con người. Ngày hôm nay ta cũng không khỏi tiếp nối và phát huy thứ vũ khí sinh tồn lợi hại ấy. Xã hội dù văn minh tới đâu cũng không thể nào dự phòng hết những khó khăn hay hiểm họa bất ngờ. Cho nên ai biết chuẩn bị từ xa một cách chu đáo thì được xem là mẫu người khôn ngoan, chín chắn. Thương gia thì luôn lo sợ mất khách hàng, thị trường biến động, làm ăn lỗ lã. Công nhân thì cứ mong muốn được tăng lương, hay lo sợ bị đuổi việc. Học sinh luôn quan tâm đến các kỳ thi, sợ không trúng tuyển vào những ngôi trường danh tiếng. Người bán hàng rong rầu rĩ khi thấy trời đổ mưa. Gã ăn mày cũng lo âu khi chiều tàn mà chiếc lon vẫn trống rỗng.

Tuy nhiên, không phải bất cứ sự lo lắng nào cũng thuộc về bản năng sinh tồn. Có những mục tiêu chỉ nhằm thăng hoa sự hưởng thụ, không đạt được nó thì ta vẫn bình yên và sống tốt. Nhưng nhận thức của con người khá kỳ lạ, cứ nghĩ rằng càng có nhiều điều kiện tiện nghi từ vật chất hay tinh thần (danh dự) thì sẽ càng an toàn và hạnh phúc nên cả đời không ngừng tích góp. Nhưng càng ra sức tích góp thì ta càng lo lắng. Dù cho đã đạt được nguyện vọng rồi ta vẫn cứ lo lắng. Ta sợ thành quả đang có sẽ bị hư hoại, hay thấy mình vẫn còn thua sút kẻ khác. Tệ hơn nữa, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi là ta bỗng thấy những gì đạt được không còn hấp dẫn. Nên ta lại vắt kiệt sức ra để tìm kiếm thêm, rồi lại lo lắng. Nỗi lo lắng của con người vì thế mà nhiều khôn xiết. Có lẽ, đến khi nhắm mắt lìa đời thì họa chăng mới chấm dứt được. Tất cả nỗi lo ấy đều phát sinh từ nhận thức sai lầm và từ nội lực yếu kém của ta. Đó cũng là một bệnh trạng tâm lý cần phải chữa trị sớm.

Bắt đầu từ sự lo lắng về một vấn đề cần phải giải quyết dứt điểm trong một thời gian ấn định. Nhưng vì chưa có giải pháp nên não bộ cứ liên tục nhắc nhở vấn đề khiến ta phải nhớ. Rồi lại lo lắng vì chưa tìm được giải pháp. Rồi lại nhớ vấn đề. Rồi lại nôn nóng giải quyết nhưng chưa được. Rồi lại lo lắng Mỗi vòng lặp lại như vậy sẽ làm cho mức độ cảm xúc xấu tăng dần, nếu bị dồn nén liên tục thì cảm xúc sẽ bị nghẽn mạch. Trường hợp đó là vấn đề quan trọng thì chắc chắn sự thôi thúc của ý chí sẽ càng lớn, cường độ sẽ càng mạnh và khả năng bùng vỡ cảm xúc sẽ càng dễ xảy ra. Lẽ dĩ nhiên, vấn đề quan trọng mà không được giải quyết thì ta phải chịu tổn thất nặng nề. Nhưng sự tổn thất ấy sẽ không làm cho ta phải đau đầu hay khổ sở, nếu ta có khả năng chấp nhận nó như một sự thật ngoài ý muốn - điều vẫn thường xảy ra trong cuộc sống vốn không ngừng biến động này.

Ít khi ta làm được như thế. Trong thực tế, chuỗi phản ứng tâm lý sợ hãi, lo lắng và căng thẳng cứ không ngừng xảy ra để bảo vệ quyền lợi mà ta đang có. Chuỗi tâm lý ấy là những cảm xúc rất tai hại. Một khi tâm lý bế tắc liên tục, sẽ khiến cho cảm xúc xấu dồn nén cao độ. Đây là cơ hội thuận lợi cho các nội tiết tố độc hại như epinephrine tiết xuất ồ ạt trong não bộ, khiến các hoạt động trao đổi chất của cơ thể bị rối loạn. Y học đã xác nhận sự rối loạn đó tác động mạnh mẽ đến sự hình thành bệnh tim mạch, suy nhược thần kinh, tăng huyết áp, giảm trí nhớ, trợ lực cho các tế bào ung thư phát triển. Ngoài ra nó còn khiến ta trở nên mệt mỏi, chán nản, khó tính và làm việc mất năng suất.

Tưởng tượng là tác nhân quan trọng tạo nên sự lo lắng đến mức căng thẳng và khủng hoảng. Nhưng trước khi trí tưởng tượng phóng đại lên những hình ảnh hoàn toàn không có thật thì nó thường bị kích động bởi tâm sợ hãi. Tâm sợ hãi bắt nguồn từ sự thiếu niềm tin vào kiến thức và kinh nghiệm đối ứng của mình trong việc giải quyết vấn đề, thiếu bản lĩnh để chấp nhận mọi tình huống xảy ra mà không sợ mình mất giá trị hay tổn thương.

Các nhà tâm lý học cho rằng cơ chế tâm lý của phái nữ nhạy cảm về những điều sắp xảy ra hơn phái nam, vì khả năng tưởng tượng của phái nữ cực kỳ phong phú. Nhưng ngược lại, khả năng ứng phó và chịu đựng cảm xúc xấu của phái nữ lại kém hơn phái nam nên khối lượng lo lắng của họ luôn khổng lồ. Nhiều thống kê cho thấy, hầu hết phái nam khi lạc đường khoảng nửa giờ hay một giờ sau mới chịu lên tiếng hỏi đường, còn phái nữ thì chỉ sau năm phút. Tất nhiên, trong số phái nam đó cũng có vài người vì sĩ diện nên không muốn lên tiếng. Nhưng cũng chính vì thế mà họ chịu khó vận dụng hết khả năng tiềm tàng và cố gắng đương đầu với những rủi ro bất trắc. Quả thật, sự lo lắng của phái nữ dường như không bao giờ ngừng nghỉ, ngay cả khi mọi thứ đã giải quyết đâu vào đấy. Có lẽ do phái nữ thường quá quan trọng đến nhiều chi tiết xung quanh, mà hầu hết những lo lắng ấy đều dư thừa. Điều đó lý giải vì sao phái nữ thường khổ tâm hơn phái nam.

Phút hiện tại nhiệm mầu

Người xưa có nói: "Không lo xa ắt có buồn gần". Đó là lời nhắc nhở ta đừng sống phóng túng, dễ dãi, không ý thức hậu quả của mọi hành vi thì chắc chắn sẽ sớm ân hận hối tiếc, chứ không phải khuyên ta hãy lo lắng càng nhiều là càng tốt. Dĩ nhiên, làm việc gì cũng đều suy tính cẩn thận trước thì ta sẽ dễ dàng đạt kết quả cao. Nhưng thực tế cho thấy không phải bao giờ ta cũng tiên đoán chính xác. Có những lo lắng không cần thiết và sai lệch trầm trọng, nhưng ít khi được ta xem xét lại hay buông bỏ bớt. Dù biết rằng thái độ lo lắng sẽ thúc đẩy ta siêng năng vận động và tập trung năng lực để giải quyết rốt ráo vấn đề, nhưng hậu quả trước mắt của sự lo lắng là khiến ta không thể có mặt trọn vẹn trong giây phút hiện tại để tiếp xúc sâu sắc với những giá trị mầu nhiệm xung quanh. Tâm trí ta lúc nào cũng bị chiếm đóng bởi vô số hình ảnh và âm thanh hỗn độn, thì làm sao ta còn đủ tinh thần để ghi nhận và quan sát? Tình trạng đánh mất mình cũng bắt nguồn từ đó.

Khi ta cầm một cốc nước trên tay và đưa lên cao, trong vài phút đầu ta thấy không có vấn đề gì. Nhưng chừng nửa giờ hay một giờ sau cánh tay ta sẽ tê cứng và đau nhức. Nếu cứ giữ như thế suốt một ngày thì chắc chắn toàn bộ cơ thể ta sẽ tê liệt. Tâm ta cũng vậy. Nếu phải gánh chịu sự lo lắng trong một thời gian dài thì nó sẽ bị tê liệt, không còn mạnh mẽ và sáng suốt để nhận diện hay giải quyết được vấn đề gì cả. Dù vấn đề sắp giải quyết rất quan trọng, nhưng nếu ta cứ mãi hy sinh những nguồn lực quý giá trong tâm hồn để có được sự hưởng thụ xa xỉ, thì ta có thật sự khôn ngoan không?

Muốn nắm bắt được sự sống, ta phải luyện cho mình có khả năng đặt nỗi lo lắng trong một khuôn khổ thích hợp. Nhưng với điều kiện là ta phải có đủ năng lực và tinh thần sáng suốt, để kịp thời quan sát tiến trình lo lắng diễn ra. Đừng để lo lắng đeo bám ta ở bất cứ nơi đâu và hình thành như một hoạt động tự nhiên. Năng lực lo lắng rất độc hại. Nó không chỉ khiến ta luôn nhăn nhó, khô cằn, mau chóng già cỗi, mà còn khiến cho những người xung quanh cảm thấy tê liệt và mệt mỏi. Nên nhớ, lo lắng cũng có tính di truyền. Ta đã lỡ mang trong mình khối lo lắng quá lớn từ thế hệ trước truyền xuống, thì hãy cố gắng chuyển hóa dứt điểm ngay từ bây giờ, để con cháu ta nhẹ nhàng bước tới tương lai.

Một trong những bí quyết giúp ta giảm bớt sự lo lắng là thái độ sẵn sàng chấp nhận kết quả tồi tệ nhất có thể xảy ra. Điều này còn tùy thuộc vào hiểu biết và bản lĩnh của mỗi người. Đối với người từng trải, họ sẽ ưu tiên việc giữ gìn tâm hồn bình thản hơn là hy sinh chúng để có thêm sự hưởng thụ. Bởi sự hưởng thụ nào cũng chỉ có giá trị nhất thời, còn những xáo trộn tâm hồn sẽ chi

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net

#doc9218
Ẩn QC