Chương 6 :

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tôi ở lại Maxcơva mấy hôm. Được tin Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng sớm mai tới đây cùng một chuyến bay. Nguyên Hồng dự kỷ niệm một danh nhân văn hoá Nga. Nguyễn Tuân đi nghỉ bạn mời.

Hai người sẽ trọ ở khách sạn Bắc Kinh như tôi. Vốn quen thuộc với khách sạn này - một nhà nghỉ và cao lâu bấy lâu cũng chìm nổi theo thời sự. Những năm 1958, khách sạn Bắc Kinh mới khai trương, tôi đã được chứng kiến những ngày huy hoàng đầu tiên vả cũng là sau cùng của khách sạn này.

Matxcơva vốn có một phong tục hay. ở đấy có quán ăn của các nước cộng hoà và của nhiều nước khác. Mới đây, hãng Mỹ Mác Đô Nan mở cửa hàng bánh mì kẹp nhân thịt ở cạnh quảng - trường Puskin, người xếp hàng dài vào mua cái món ăn quen mà lạ. Cao lâu Grudia, cừu nướng thơm ngạt mũi chẳng khác khói mỡ các quán cố kính, hoang dã dưới hầm ở thành phố Tybilitxi. Người nhà bàn, áo sơ mi trắng viền đỏ quanh cổ. Tiếng nhạc grudia như vẩn vương từ thảo nguyên tới. Các phòng ăn cao lâu Bắc Kinh, kiến trúc và trang trí như một dinh thự, một lâu đài, một hành lang bao quanh hồ ở Di Hoà Viên. Cột đình sơn son thếp vàng chói lọi. Những bức lụa quốc hoạ én bay liễu rủ. Món vịt quay Bắc Kinh nổi tiếng, nhà bếp bưng cả con vịt lên bàn trước mặt khách, với dao và thớt phụ bếp xách theo. Con vịt vàng hây đã được rút hết xương, dao chặt hoa lên như múa. Hàng ngày, máy bay chở rau, gia vị và các thứ nhà bếp cần dùng, chỉ có bảy tiếng từ Bắc Kinh đưa thẳng tới.

Rồi trải ba thập kỷ, khách sạn Bắc Kinh ở Matxcơva tàn lụi, thoi thóp. Nhà hàng vẫn giữ vẻ bề ngoài, vào bàn có thể cầm đôi đũa mun đen bóng, có đĩa măng khô và miến xào mộc nhĩ. Mặc dầu, nhà bếp Nga đã thay đầu bếp Trung Quốc, nhưng mà đường xa và thói quen hơi hướng đũa bát quê hương cũng là một cái thích khiến tôi vẫn mỗi khi qua thì ăn nghỉ ở đấy.

Từ năm ngoái, có sự giao lưu trở lại, khách sạn Bắc Kinh đã tươi tỉnh hẳn lên, có thể còn xuân sắc hơn xưa. Kiến trúc sư, hoạ sĩ và các nhà chuyên môn Trung Quốc sang tu bổ nội thất. Những xếnh xáng nhà bếp Tàu đội mũ nồi ngất ngưởng màu xanh, màu hồng lại bưng cả con vịt quay vàng tía bóng mỡ lên rồi múa dao chặt thành miếng trước mặt thực khách. Biết tin vui thế, nhưng chưa lần nào còn được trở lại. Những người đi việc công có đôi chút ghé gẩm nghé nghiêng ra vẻ du lịch như tôi kiểu nhà nước cấp tiền và nhờ vả, rặt những trớ trêu và buồn tủi. Miếng ăn, cái uống, nơi nào sao mà tự mình định được. ở Tân Đê li, khách sạn ba sao Giampat mỗi lần tôi qua tầng trệt, các chủ hàng thoáng thấy, vội ra đứng trước quầy cúi đầu cung kính mời vào xem vàng bạc, đồ da, đá quí và các thứ rượu. Nhưng túi rỗng, tôi ngước mắt đi qua không chào lại vờ như còn đương mải nghĩ. Chả là tôi vừa nhận giải thưởng hội nhà văn á Phi 1969, bà thủ tướng J.Ganđi trao tặng kèm nghìn bảng Anh. Nhưng trong va li tôi chỉ có tờ bằng chứng nhận và chiếc huy hiệu bằng đồng to như cái đĩa. Và mấy chai vôtca các bạn nhà văn Nga cho, ai đến mừng thì nâng cốc vui sướng. à hôm sứ quán ta nhận tiền giải thưởng tôi đưa, có làm một tiệc đứng ăn nem rán mời khách.

Cái năm Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng với tôi đến ở khách sạn Bắc Kinh cạnh quảng trường Mai còn hiu hắt. Chúng tôi vẫn còn được uống Mao Đài, kể cũng là cái thú còm. Không biết ai là người trước nhất nhớ ra năm 1978 ấy, nhà văn Nguyên Hồng tròn sáu mươi tuổi. Nên chơi một cuộc chúc thọ ông chứ!. Mọi tốn kém trông vào tiền bài báo tôi vừa nhận của báo Tin tức, bạn thân Misen đưa cho. Tự huyễn cho có mẽ, chứ chỉ là bữa chén thường, có của quí Mao Đài với mấy bạn nhà văn và bạn phiên dịch tiếng Việt ở Matxcơva. Phía chúng tôi, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng và Nguyễn Văn Mãi với tôi, hai chúng tôi đương đợi ngày hẹn tàu hoả đi Vacsava. Phòng ăn lớn đông nhộn. Dàn nhạc cuối phòng nổi lên, người ta bắt đầu nhảy. Marik bảo tôi: Này ông để ý nhé, những người vừa làm chầu sâm banh xong ra sàn nhảy kia không phải như ông là khách nước ngoài trên phòng xuống ăn tối đâu. Không bọn chó lợn ấy là giám đốc, là người làm cửa hàng nhà nước ở các phố quanh đây. Anh Vlat phiên dịch tiếng Pháp khi còn sống, hay đưa tôi xuống thành phố bờ biển Yanta trong bán đảo Crưm. Lúc đầu tôi không hiểu sao Vlat rất ghét những người có nhà rộng, buồng đẹp hàng năm cho khách thuê mùa hè. Nhưng rồi Vlat nói: Bọn chó này thời chiến tranh thì chạy hết xuống phía nam, đi buôn lậu, giầu lên, có tiền tậu nhà, chúng nó sướng đến tận bây giờ, mà em trai tôi thì bỏ mạng ở chiến hào ngoại ô Matxcơva. ờ mà sân khấu Hà Nội đã diễn vở kịch Câu chuyện ở Iêckut, có hai thanh niên xung phong đi khai hoang đã chửi người chị là nhân viên cửa hàng của nông trang không dám ra khỏi nhà một bước, chỉ bám vào cái quầy bách hoá rình ăn bớt của khách từng đồng xu. Những ti tiện ấy tôi cũng đã chứng kiến ở bistro và các quầy ăn đứng trong khách sạn. Những hôm vắng khách, không phải xếp hàng, có mình tôi mua gói sữa smêtan hay miếng phó mát, thế nào tiền trả lại cũng thiếu vài hào, vài xu. Những bà bán hàng béo ục ịch ấy đã biết tôi không có tiếng Nga.

Đương vui, lại thấy Nguyên Hồng lật đật ra thang máy. Chốc chốc lại bỏ đi một lát.

Cô Ina Zimônina hỏi:

- Ông Nguyên Hồng quên những gì trên buồng mà cứ phải lên nhiều lần?

Tôi cười:

- Không, ông ấy có bệnh.

- Thế thì phải đi khám. Bệnh gì?

Tôi chạm cốc với cô bạn Nga kỹ tính.

- Không cần. Bao giờ cô được ăn mừng lên lão sáu mươi tuổi thì cô sẽ biết những bệnh của người già, bệnh già.

- áp huyết hay thấp khớp?

- Ina thân yêu, bệnh Tào Tháo đuổi thôi. Không đáng lo!

Bao giờ cô đến sáu mươi... bệnh già... Không khi nào tôi hỏi lại Nguyên Hồng hôm ở phòng ăn khách sạn Bắc Kinh làm sao cứ mỗi lúc lại phải chạy lên buồng. Biết rồi, chẳng đái giắt thì cũng đi trống tràng, mà hôm nay không ra đến phố chỉ ở trong nhà nên hà tiện một viên thuốc rửa. Đã lâu, nghiện rượu chợ, rượu tạp với ớt, với ổi với mướp đắng heo hút ở đồi Nhã Nam, vơ váo ăn và uống lộn xộn đã quen dạ. Đến nỗi cái ngon lành lại đâm lạ miệng, rối loạn tiêu hoá. Tôi đã biết từ lâu ông bạn rượu của tôi khoẻ nhưng yếu bụng kinh niên. Trong cái cặp da bản thảo thường cắp theo, lúc nào cũng kẹp sẵn mảnh giấy dầu vỏ bao ximăng Con rồng xanh không thấm nước. Có việc cả đấy, việc cực gay gắt. Đêm ngủ đâu nhỡ một cái, mà chuồng xí ở nhà dưới, ở sân sau, đèn đóm không có, khuya khoắt quá rồi thế là người lần ra hiên hay cạnh cửa sổ, trải mảnh giấy dầu ra. Được cái phân tháo tỏng thì ít nặng mùi, rồi gói lại kỹ lưỡng bỏ vào cặp. Hôm sau vứt xuống hồ hay đống rác nào đấy. Có khi tiếc cái giấy còn tốt, lại gột sạch đem phơi. Chẳng coi là sự bẩn thỉu phải giấu diếm, nhiều lần Nguyên Hồng đã cắt nghĩa cho tôi về tác dụng nghệ thuật so sánh hiện đại của mảnh giấy dầu. Nguyên Hồng bảo: Trên máy bay người ta bĩnh vào bọng hố xí thì cũng thế. Cái kiểu tuôn xuống đường sắt ở xe lửa còn kém văn hoá hơn nhiều. Lý sự đến vậy thì chịu. Khốn khổ, cái lão cãi chày cãi cối cho bệnh già mà lão không khi nào chịu ai chê lão già. Lão thường phàn nàn ầm ĩ là vợ lão kheo khư như con mèo hen khiến lão mất cái hứng của Dương Khuê Sớm tình tình sớm, trưa tình tình trưa. Không, nhưng mà cũng có, những tơ nhện thoang thoảng. Nạ dòng, má phúng phính bánh đúc, áo cánh chồi, nhai trầu môi cắn chỉ là ăn ý lắm. Mỗi khi gặp người dáng dấp vợ cai vợ lính xưa mà chúng tôi đều đặt tên là bà ách và ghép tưởng tượng cho lão Nguyên Hồng, bà cai ách bán bia hơi gần chợ Hôm, bà cai ách bia chai ở bờ hào trên Sơn Tây là vậy.

Có một trận tan hoang hơn. Dạo ấy, trên Yên Thế ở cái chợ chân đồi mà Ngô Tất Tố đã miêu tả trong bút ký Phiên chợ trung du ở Tạp chí Cứu Quốc có một mụ hàng xén tản cư. Chẳng hiểu ông anh câu được bà mèo già ấy từ bao giờ. Chỉ biết rồi mãi cái kim trong bọc cũng phải lòi ra, có người mách, một hôm bà chị đã kéo cả đại đội binh mã con cái ra đánh ghen một trận. Mụ hàng xén bán sới đi nơi khác. ít lâu sau, tôi hỏi: Bóng chim tăm cá ra sao, có còn gặp lại nàng Kiều không? Nguyên Hồng nhăn nhó trả lời: Mất mẹ nó cái màn Chẳng biết người ta dọn chạy đòn với cái màn nhà văn gửi bán hay cái màn của ông ấy đem ra mắc để đêm nằm cho đỡ muỗi!

Vẫn chưa hết những chuyện tầm phơ. Có một quán bia hơi gần ngã sáu mà trong một thư của Nguyễn Tuân viết cho tôi lên Lai Châu có nói đến quán bia bà cai ách vẫn còn bữa đực bữa cái - cái tên bà cai ách cũng vẫn là chúng tôi đặt và gán cho ông cai ách Nguyên Hồng. Bà cai ách và lại một câu chuyện gần hương gió bay đâu cũng thây kệ. Nguyên Hồng để ý cái bà nạ dòng phì nộn ấy. Mỗi lần có xe bia về, lão xích lô co chân đạp hai thùng bia lăn xuống hè, bác gà trống cứng cựa Nguyên Hồng tỏ tình bằng cách lau chau ra ghé vai vác thùng bia vào, kê lên bệ cẩn thận. Hôm khác, lão xích lô xe bia về, lót gạch đạp xe lên hè vào sát cửa. Làm cho tình địch Nguyên Hồng mất một dịp ra tay giúp đỡ và gần gũi. Nhưng mỗi lần bia về, Sơn Tinh xích lô và Thuỷ Tinh Nguyên Hồng khi nào cũng được bà lão người đẹp rót cho mỗi người hai vại bia tươi đầu tiên và chúng tôi cùng được chan hoà hưởng lây.

Một hôm, tôi mách Nguyên Hồng: Ông ạ, quán bà cai ách sắp bị đóng cửa? - Sao? Sao? - Bà ấy bảo chúng nó đổ cho bà tằng tịu với lão xích lô, tai tiếng ầm ĩ, nhà máy không cấp sổ đại lý cho nữa!. Nguyên Hồng cười hê hê. ối mẹ ơi nhà máy bia ô Mền bây giờ kiêm cả công tác bảo vệ đạo đức bà phó Đoan.

ở khách sạn Bắc Kinh, sớm hôm sau, Nguyễn Văn Mãi và tôi đi Vacsava. Chia tay, tôi hỏi Nguyễn Tuân:

- Hôm nào ông xuống nghỉ dưới bãi biển Yanta?

- Không, mình ở đây...

- Đi nghỉ cơ mà?

- Đây cũng là đến nơi nghỉ rồi? Cuối mùa thu, sắp có tuyết, xem tuyết Matxcơva cũng hay.

Tôi chịu. Đó lại là sáng kiến tự gây hứng thú, ai mà cãi được. Khi mùa đông tới, người Matxcơva xuống Hắc Hải tránh cái băng giá phương bắc. Nguyễn Tuân thì muốn ở lại nơi ban đêm ba mươi độ âm để xem tuyết? Mà Nguyễn Tuân mới chỉ qua cảng Ôđetxa, chưa đến thành phố thoáng đãng cửa biển và lịch sử Yanta trong bán đảo Grưm lần nào. Cái kiểu nói của một người cả đời thèm đi bây giờ cũng đâm ra ngại đi rồi.

Đến hôm tôi ở Vacsava trở lại, cả Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng đều đã về Hà Nội. Anh bạn Marik kể rằng ông Nguyên Hồng xuống Khackôp đi xem bóng đá thấy những pha đẹp mắt, ông đứng trên khán đài huara huara loạn xạ rồi ôm đại các bà đầm hai bên, nhẩy lên. Cô phiên dịch Galina khiếp quá phải điện về hỏi Matxcơva, cô Ina - lại một người đàn bà khác, cũng sợ quá, lập tức bảo đưa ông ấy về ngay. Thế là ở Matxcơva hai ông cùng nhau ngày ngày ngồi uống rượu trông ra cửa sổ xem tuyết rơi. Hôm Nguyên Hồng về, Nguyễn Tuân cũng về theo - trước cả ngày hết hạn nghỉ.

Tôi đến chơi nhà, Nguyễn Tuân đứng dậy mở cánh cửa chớp, rồi lấy ra một chai cô nhắc năm sao trong đám hành lý mới về. Một chút nắng chiều đông nhợt nhạt còn rớt lại ngoài cửa sổ, đung đưa như miếng lụa hoa cau bị xô rách. Không ai nói một câu về mấy ngày Matxcơva vừa qua mà bỗng chốc đâu có thể quên ngay, dẫu cho không có gì vui buồn đến gợi nhớ. Một lúc lâu, Nguyễn Tuân mới rầu rầu nói: Chẳng ở đâu bằng ở nhà, cái khách sạn nhà tớ, cậu ạ. Không biết thế có phải cái nản chí của người già bạc đến hết cả lông mới nghĩ quẩn thế chăng.

Lại còn không biết sao nữa! Chẳng qua đây chỉ là lão giang hồ tự hỏi, tự hận. Cái đau của một người cả đời ham đi mà rồi dần dần không đi đâu cứ quanh quẩn, bức bối, bực dọc, dằn vặt. Trải mãi gió bụi, mái tóc càng thưa thêm. Tâm sự và tóc. (Cao Bá Quát). Hai cẳng chân ngày càng giở chứng, làm mình làm mẩy. Ngày ở rừng Việt Bắc, tôi đã thấy cái người hay nay đây mai đó ấy chịu khó chăm lo cho hai chiếc bàn đạp chân cẳng mình thế nào. Chân Nguyễn Tuân đã lôi thôi từ những khi ấy. Cái đận ở rừng Thường Yên âm u ẩm ướt, vào tiết đổi mùa, nhiều khi phải nằm bệnh suốt phiên chợ. Cả buổi cháu Trần Mai Thiên lụi hụi ngồi xổm trên cái giát tre bóp chân cho bác Nguyễn. Đi đâu, lúc nào Nguyễn cũng trữ miếng cao hổ bọc giấy bản trong ba lô. Cả ngày lội suối, cảm thấy trục trặc, đêm lại ngậm tươi một miếng cao. Không biết chừng, người ấy đã nuốt xương cốt đến cả mấy chục chú hổ Lai Châu, hổ Xiêm, hổ Lào?

Sức khoẻ dần dà xuống dốc tự nhiên, như nhiệt độ hàng ngày và dự báo mưa nắng. Cái xe đạp mất cắp ở cạnh cửa khách sạn Thống Nhất thế rồi bỏ đi xe đạp. Vài đoạn đường bách bộ với chiếc gậy song Sa pa, hay là một cuốc xích lô. Nhưng cuộc chia tay của Nguyễn với cái máy chữ Baby thì thương và nhiều nghĩ ngợi hơn.

Cái năm mới trở về Hà Nội, Nguyễn Tuân có dịp cùng đoàn đại biểu hoà bình Việt Nam đi Hen sanh ky dự đại hội hoà bình thế giới. Hoà thượng, linh mục, nhân sĩ, trí thức, đại biểu công nhân, nông dân, chiến sĩ quân đội, thanh niên, phụ nữ... Chẳng thích thú gì đoàn, chưa chắc đã nhìn mặt những người cùng đi, nhưng có cơ hội được tới nước Phần Lan trên mỏm bắc bán cầu. Rồi lại một chuyến đi xa nào đấy, Nguyễn Tuân sắm cái máy Baby xách tay dấu quốc ngữ. Hay là mua máy ở chợ giời tôi không biết. Bởi vì mỗi khi đổi vạc thì bộ mặt thời cuộc thành phố này lại phơi bày đủ thứ ngoài chợ giời. Những đĩa hát của Mộng Hoàn, của Chu Thị Năm năm xưa cũng là những chứng sống của thời thế mà ông đã nhặt ở chợ giời. Tôi thực không biết gốc gác cái máy chữ Baby ấy - vỏ rách một góc vải, nhưng những con chữ còn mới cạnh sắc.

Tháng ngày qua, con người ở vào tuổi triền núi bên này, cứ sớm tối như chiêm bao. Lại nữa, cuộc sống còm cõi, ngòi bút và đồng lương không cho người viết kiếm đủ miếng ăn, cả đến mặt mũi và con mắt cũng mòn mỏi dần. Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai, khác nào người sơn tràng cả đời thừng chão, rìu búa đi kiếm củi rừng đến khi về già leo dốc thở ra cả hai tai mà vẫn ao ước và tưởng tượng trèo lên lưng cây, mạng sườn quấn chão, lưỡi rìu khoác vai. Nhưng chẳng còn một hột sức ôm nổi cái gốc cây. Thì lại thở dài nhìn cái đứa mạnh chân khoẻ tay hơn.

Môi người viết có một thói quen khác nhau.

Nguyễn Tuân thì cả đời chữ nghĩa và xung quanh người bái phục, người điếu đóm, người bắt chước cái ăn, cái mặc và hóng chuyện để đồn thổi. Tiểu thuyết Bốc đồng của Đỗ Đức Thu ngày trước đã vẽ ra được những nho lại làng văn và những khỉ bắt chước người như ở trên. Chẳng cứ chỉ có xưa kia, mà về sau này cũng tương tự thế. Người ta châu tuần và chầu rìa quanh Nguyễn Tuân, đợi được sai bảo, được đi chơi với, uống với. Năm cũ ông Văn - tên nhân vật trong tiểu thuyết Bốc đồng mà bạn đọc có người đoán là Mạnh Phú Tư, ông bán cả ruộng hương hoả, ném vào các cuộc chơi, lăn lóc đến phát bệnh sốt rét vì liên miên thức trắng đêm ở nhà hát. Thế mà các cụ vẫn mạnh khoẻ, lại gật gù: Các cụ cho là được! Ông lang Hà Văn Thực phố hàng Cót đánh đu với tinh cũng mở nhà xuất bản Lượm lúa vàng rồi nghiện bẹp hai tai vỡ nợ tan cả hiệu thuốc bắc gia truyền. Ông Lê Trọng Quỹ giọng trầm não ruột, không biết có phải vì nhờ hơi thuốc phiện làm cho tiếng khàn khàn mà ngâm thơ buồn đến thế, rồi ốm phải phát mại cả cái cửa hàng sắt vụn. Ông Lê Đức tập tọng viết văn về nhà cầm đoạn mại ruộng đem nắm tiền ra, theo gót đàn anh, chỉ học được mỗi cái trò giắt trong cạp quần lá tọa một cái tẩu thuốc, chiếc ấm mạnh thần với cái chén hạt mít để theo đòi trà đạo. Có người cũng mặc áo gấm trần, chít khăn lượt đi giày Gia Định, tay cầm quạt thước - như Nguyễn. Cả những năm sau này Nguyễn đã cao niên mà cũng chẳng thiếu ông làm dáng theo. Có ông hoạ sĩ chải ngược tóc như Nguyễn, đến lúc ông Nguyễn xoã mớ tóc bạc phơ sau gáy, cũng lại lắm ông xoã tóc, như Nguyễn. Ông Nguyễn Tuân rởm ấy đi nước ngoài, lên máy bay, mặc sơ mi ngắn tay kẻ ca rô, tay chống ba toong nghênh ngáo nhìn xem người ta có nhìn mình như nhìn ông Nguyễn không.

Cũng là cảnh thảm với nhau mà thôi. Thỉnh thoảng, chúng tôi cũng chuyện về những người bắt chước dở hơi ấy. Hay gọi một cách kính trọng, những người rồ chữ, chữ thật và chữ giả. Ông anh con nhà báo trong quê ra, hỏi tôi: Này chú, cái lão Xuân Diệu thế nào ấy nhỉ?. Chả là anh tôi làm chủ nhiệm hợp tác xã mà hôm trước nhà thơ Xuân Diệu về huyện nói chuyện thơ, các chủ nhiệm được lên dự. Nhà thơ nói về Kiều. Ai cũng xuýt xoa ông nói hay quá. Nhưng người ta buồn cười vì thấy ông nhà thơ cứ chốc chốc lại đổi chỗ lọ hoa, bê cái đèn nơi này sang nơi kia vẫn chỉ ở trên bàn. Thỉnh thoảng lại quát người nghe: Vỗ tay đi chứ. Tôi lao động thì đồng bào phải vỗ tay khuyến khích tôi lao động. Vỗ tay nào? Tôi nói: Anh Xuân Diệu nói chuyện giỏi lắm, thế là nói theo mốt Tây đấy, bác ạ. Anh tôi cười: Cũng là rồ chữ, rồ chữ, chú ạ. ừ, rồ chữ cũng có nghĩa đẹp là hay chữ, hay chữ quá hoá rồ. Có ông già nửa đêm thức dậy, ngồi nói từng tràng tiếng Tây một mình. Có ông dạy đàn xưa kia giàu có rồi cái trường nhạc của ông phải đưa vào quốc doanh, bô Duyệt mới chơi trống bỏi lấy một nàng nửa chừng xuân. Bây giờ thì ông trắng tay, nhưng dẫu cơm trộn mì, ông cũng dọn lên bàn, cầm thìa dĩa thái, cắt rau muống luộc, và húp bát súp nước rau, cay đắng gậm nhấm sự hoài cổ. Một nhà văn nọ sắm mấy bộ thìa dĩa cho cả nhà. Ông ấy mơ màng, ngỡ kháng chiến thành công rồi thì đốt được giai đoạn ăn cơm đổi đầu đũa và lấy đũa chùi ngang mép thay khăn mặt, bây giờ hứng phấn sắp bước sang thời nếp sống ngồi bàn thìa dĩa cầm như Tây thì phải sắm đồ Tây.

Nguyễn Tuân tủm tỉm:

- Thì cười ngay tao đây chứ còn phải cười thằng nào. Tao qua Bắc Kinh, gặp Tào Ngu. Tào Ngu vỗ lưng tao, - nói tiếng Pháp: Các toa có tự do, thật sung sướng. Moa thèm đi Hà Nội. Chuyến ấy Nguyễn Tuân ở khách sạn với vợ chồng Vercors đương thăm Trung Quốc. Đã ngỡ rồi ra quảng cáo những cảnh tưng bừng, sách của ta bày bán bát ngát trong nước ngoài nước. Hàng năm xách vali đi du lịch bằng tiền túi. Phải có thư ký riêng chứ - thuê một cô hay là luyện cho con gái mình làm thư ký. Nhưng trước mắt ngay lúc ấy thì vẫn túi lép kẹp, đến Bắc Kinh thăm chợ Đông An, hai tay đút túi, đứng chỉ xem hàng và cố đi nhìn cái hiệu Thôi Tụ Đức thịt quay Bắc Kinh tiếng tăm lừng lẫy thế giới cho biết mặt, chứ làm sao bước chân vào được. Mà mỗi khi ở sân bay Gia Lâm về qua cầu Long Biên, ra ngã sáu dốc hàng Kèn làm cuộc tẩy trần bát cháo gà lão Chữ cũng phải nhẩm xem trong túi có bao nhiêu. Mới nhớ ra cái vé máy bay, cái tiền ăn và tiền tiêu vặt hàng ngày là của người ta cho, chẳng phải đồng nào của nước mình, của mình. Có ra gì mà vênh? Dần dần đến bây giờ, thế này đây, cái thằng nhà văn!

Nói thế chứ, đồng tiền phân bạc, Nguyễn Tuân áo rách cũng vẫn đượm màu phong lưu, tiền thì cứ tiêu và chỉ tính thôi chứ không đếm. Nguyễn Tuân, một người ý tứ, trân trọng, thận trọng, khéo thu xếp. Giựt nóng tiền của ai để ra bà hàng hoa quen ở ngã tư Tràng Tiền mua bốn bông hồng vàng lòng trứng đưa đến bữa ăn sinh nhật nhà bà nhạc sĩ nọ. Chỗ này dọn dẹp sang chỗ kia, làm cho những người mình nhờ cậy, những người mình biếu tặng cứ tự nhiên nghĩ mà phải bằng lòng phải cảm kích. Tài nghệ lắm mới sáng tạo, mới tính ra được những khu xử tế nhị đến thế.

Nguyễn Tuân bảo:

- Lại nói nốt chuyện hôm nọ.

- Chuyện gì?

- Chuyện ta mộng thành nhà văn cỡ quốc tế ấy mà.

Nguyễn Tuân kéo trong gầm giá sách ra cái hộp nhựa giả da nâu đã sờn góc. Chiếc máy chữ Baby xách tay mọi khi tôi vẫn trông thấy đặt dựng hộp máy trên gờ thềm gạch giữa buồng.

- Hôm nọ đã nói đấy, tớ cũng tô hồng và ảo tưởng đáng chửi chẳng khác cái thằng sắm thìa dĩa để sắp sửa vứt đũa, chỉ chén cơm tây. Chiếc máy chữ này, cứ nhìn đến mà sượng cả mặt. Máy chữ để cô thư ký tưởng tượng đánh máy bản thảo hão huyền. Ông xách nó đi cho tôi. Tôi không gán nợ ông đâu nhé. Dưng mà ông mang đi đâu thì mang. Cho khuất mắt tôi, không có lúc tôi phải đem ra đập nó mất. Mang đi, mang đi giúp tôi. Đả tự khí! Đả tự khí? Thời các cụ ta gọi máy chữ là cái đả tự khí. Bớ tổng binh Tô Hoài, nhà ngươi hãy mau mau đem trôi sông cái đả tự khí Baby đi cho trẫm. Ha ha? Trẫm ngứa mắt lắm rồi.

Mặt Nguyễn Tuân đỏ găng. Vua đương ra vai đập cái nậm rượu gỗ, cả rạp cười ngoặt nghẽo, nhưng người đóng vai thì bụng lép và vợ ốm nằm nhà. Tôi không muốn điều mai mỉa này làm rầu lòng thêm Nguyễn Tuân. Tôi lây cái sợ. Tôi lặng lẽ xách cái máy chữ Baby chặt ních mơ ước một thời, tôi bước giật lùi ra cửa. Không biết còn có những ai đem đi giùm anh đôi

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net