Chương 170: Cuộc sống điền viên

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

"Vượt sông mất 42 ngày, sau khi chiếm được những thành phố lớn như Nam Kinh, Thượng Hải, Vũ Hán, toàn bộ hai tỉnh Giang Tô, An Huy và phần lớn Giang Tây, Hồ Bắc, Phúc Kiến, để giải phóng toàn bộ Hoa Đông rồi đến Hoa Nam, tiến quân về phía Tây Nam chính là điều kiện tiên quyết."

Khuôn viện ngập trong ánh hoàng hôn, chân trời đỏ rực, ngay cả gốc đa già xù xì cũng như bị nhuộm đỏ. Tháng sáu, trời càng lúc càng nóng, cho dù trong viện có hồ nước thì không khí vẫn rất oi bức.

"Được rồi, nói đến khô miệng luôn, mấy đứa này, chỉ biết quấn lấy tiểu thư là giỏi." Mai Hương bưng một bát sứ đi ra, nàng mặc một bộ y phục thoải mái, ống tay xắn cao đến tận khuỷu, vừa đi vừa dài giọng rao: "Nước ô mai ướp lạnh đây, ai muốn khôôôôôôôông..."

Thanh Thanh nghe vậy liền nhỏm dậy, vỗ tay hoan hô: "Woah! Có nước ô mai uống!" Dứt lời liền vội vàng chạy vào bếp phụ bê nước ra.

"Tiểu thư, em có dùng băng trong hầm ướp lạnh, uống rất mát, người thử xem."

Sau khi rời hỏi Đường Kinh, Sở Kiều không cho Mai Hương gọi mình đại nhân nữa, vốn muốn Mai Hương xem mình như tỷ muội mà xưng hô, nhưng nàng lại chết sống không chịu làm theo. Sở Kiều không thể làm gì khác ngoài để mặc nàng gọi mình tiểu thư.

Nắng chiều vô cùng ấm áp, Sở Kiều không giống như đám người Mai Hương, so với ngày hè ở thế kỷ 21, nhiệt độ bây giờ nhiều nhất cũng chỉ như xuân thu ở kiếp trước thôi, có điều nước ô mai Mai Hương làm quả thực rất ngon, không thể không uống.

"Tỷ tỷ, chỗ đó không phải có phi cơ sao? Tại sao không trực tiếp dùng phi cơ bay qua? Sao còn phải dùng thuyền sang sông nữa?"

Một cánh bướm bay đến, chập chờn lượn quanh khóm lan trong vườn, Sở Kiều ngồi dưới gốc đa, thân mặc áo ngắn tay màu lam nhạt, phía dưới là một chiếc váy dài màu trắng ngà, nhìn vừa thanh lịch vừa thoải mái,"Đa Cát, giải thích cho Bình An nghe đi."

Đa Cát đăm chiêu suy nghĩ một thoáng rồi để chén nước xuống, nói với bộ dạng như rất từng trải: "Phi cơ hẳn là vật hiếm, rất quý giá. Nhưng Tưởng nguyên soái được phương Tây chống lưng nên sở hữu không quân hùng mạnh, còn Mao nguyên soái thì không có sự ủng hộ của nước ngoài, lại tác chiến trong thời gian dài, lại không chọn thành phố lớn làm căn cứ địa, không có trang bị quân sự tiên tiến là chuyện bình thường, vì vậy phe bọn họ có lẽ cũng chẳng có phi cơ hay không quân."

Sở Kiều bưng chén hớp một ngụm, nước ô mai lành lạnh chảy qua cuống họng, mát đến tận phổi. Nàng cười nói: "Đa Cát nói rất đúng, thời điểm đó sức sản xuất không cao, Mao nguyên soái cũng không có thế lực không quân, ban đầu đây chính là nguyên nhân chủ yếu khiến bọn họ phải chịu thương vong cực lớn."

Bình An đột nhiên cảm thán, "Tỷ tỷ, nước Trung Quốc mà tỷ nói, thật lợi hại, y như trong truyện cổ thần thoại vậy. Có thể bay lên trời, có đại pháo bắn một phát là oanh tạc cả một tòa nhà, nếu như bọn họ chạy tới đánh Tây Mông của chúng ta, chỉ cần cho pháo binh nã một phát cũng đủ đánh bại chúng ta. Thiết võ quân của Đại Hạ hay Hắc ưng quân của Bắc Yến gì đó đều không phải là đối thủ."

"Đó đều là thần thoại thôi." Thanh Thanh bĩu đôi môi đỏ ửng vì nước lạnh, vừa tiếp tục nhâm nhi nước ô mai vừa nói: "Thế giới chúng ta sao có vật đáng sợ như vậy chứ?"

Sở Kiều không nói mà chỉ lẳng lặng mỉm cười, Mai Hương rót thêm một chén nước ô mai đưa đến, nàng đón lấy cầm trong tay, cảm nhận hơi lạnh xuyên qua đầu ngón tay lan ra toàn thân, vô cùng dễ chịu.

"Chưa chắc." Đa Cát lắc đầu, hoài nghi nói: "Ba trăm năm trước, đại lục Tây Mông chúng ta còn chưa có thuyền to, hải phận chưa từng xuất hiện chiến tranh. Nhưng bây giờ đại lục đã có thương đội có thể gióng thuyền đến tận chỗ người phiên xa xôi. Chưa kể đến đồ sắt, năm trăm năm trước, tổ tiên chúng ta đánh giặc đều dùng vũ khí bằng đồng, đao kiếm gì đó đều rất mềm, lúc đó làm gì có ai nghĩ đến chuyện rèn ra kiếm sắt như hôm nay? Đó là chưa nói đến những thứ như giấy và vải vóc, trước kia con người đều dùng đá khắc chữ, dùng trúc cuốn lại thành sách, dùng da thú làm y phục, còn bây giờ thì sao? Cho nên phải nói, kỹ thuật luôn phát triển không ngừng, có lẽ qua mấy trăm năm nữa, hoặc mấy ngàn năm nữa, chưa biết chừng sẽ thật sự xuất hiện phi cơ có thể bay lên trời như tiểu thư nói, có thể có đại pháo bắn một phát làm nát vụn một gian phòng."

Sở Kiều nghe nói thì vui vẻ nhìn Đa Cát, khen ngợi, "Vẫn là Đa Cát biết nhìn xa."

Đa Cát thường ngày luôn trầm tĩnh như ông cụ non, nhưng hễ đối mặt với Sở Kiều liền xấu hổ đỏ mặt. Cậu gãi đầu, ngây ngô cười nói: "Tiểu thư, có mấy chỗ Đa Cát vẫn chưa rõ lắm."

Sở Kiều hứng thú nhìn cậu, "Nói nghe thử xem."

"Đầu tiên, ta cảm thấy nguyên lý của đại pháo và đạn hỏa tỷ tỷ chế ra lúc còn ở Bắc Yến có chỗ tương đồng, cũng rất giống pháo trúc bán ở chợ. Không biết chúng có liên quan gì không?"

Sở Kiều càng thêm vui mừng, gật đầu xác nhận rồi mỉm cười nói: "Đa Cát thật thông minh, đích thực là có điểm chung, pháo trúc là hỏa lực dạng thô sơ nhất, nguyên lý cũng giống như đạn hỏa. Chỉ có điều, đạn hỏa mượn sức của mảnh băng khi nổ nên mới có uy lực lớn hơn, còn muốn đạt đến trình độ của đại pháo thì cần kỹ thuật chế tác tỉ mỉ cực cao, với kỹ thật rèn sắt hiện giờ của chúng ta thì rất khó làm được."

Bình An và Thanh Thanh rõ ràng nghe không hiểu nhưng cũng gật đầu hùa theo. Đa Cát im lặng suy nghĩ một lát rồi lại ngước lên hỏi: "Tiểu thư kể về những loại vũ khí này, ta vẫn cảm thấy không giống như thuận miệng kể chuyện thần thoại mà thôi, hẳn là có nguyên do gì đó, chỉ là tạm thời vẫn chưa nghĩ ra."

Cậu chau mày, dáng vẻ vô cùng đăm chiêu thực giống một ông cụ non, đột nhiên lại hỏi: "Tiểu thư, hôm qua người bảo chúng ta trở về suy nghĩ nguyên nhân thất bại và thắng lợi của Tưởng nguyên soái và Mao nguyên soái, ta cũng có vài ý kiến, không biết có đúng hay không?"

Sở Kiều khích lệ cậu, "Nói thử ta nghe xem nào."

Đa Cát yên lặng một lúc lâu như đang do dự gì đó, cuối cùng lấy hết dũng khí mới mở miệng nói: "Ta cảm thấy Mao nguyên soái có thể chiến thắng, chủ yếu là vì được dân chúng ủng hộ."

Cậu vừa dứt lời thì Bình An lập tức phản đối, "Không đúng, không đúng. Phải do gã Tưởng nguyên soái kia quá ngu mới đúng, thuộc hạ đều ôm tâm tư riêng, quân đội đông nhưng lại chia năm xẻ bảy, cuối cùng đều phản bội ông ta, bằng không ông ta đã không thua."

Sở Kiều quay sang nhìn Bình An, lẳng lặng hỏi: "Vậy em có nghĩ vì sao thuộc hạ của Tưởng nguyên soái lại phản bội ông ta không?"

"Bởi vì..." Bình An thoáng ngẩn ra, vốn định nói vì Tưởng nguyên soái quá ngu ngốc, nhưng nghĩ kỹ thì lại thấy có gì không đúng, ấp úng một hồi mới nói: "Bởi vì bên phe của Mao nguyên soái đông đúc, bọn họ sợ nên mới làm phản."

"Vậy tại sao bên Mao nguyên soái lại trở nên đông như vậy? Phải biết rằng lúc chiến tranh vừa bắt đầu, quân số giữa hai bên cách biệt rất lớn."

Bình An nhất thời á khẩu, quanh co một hồi vẫn không nói được nguyên do.

Đa Cát ở bên cạnh đỡ lời: "Ta cảm thấy, có vài chuyện Mao nguyên soái đã làm thật sự vô cùng anh minh."

Cậu thành thật phân tích tiếp: "Mao nguyên soái đã sử dụng phương thức tác chiến cực kỳ cao minh. Lúc mới bắt đầu chiến tranh, ông ta liền bỏ thành lớn trở về nông thôn, hơn nữa còn tiến hành cải cách ruộng đất, phân đất cho người dân. Làm như vậy, dân chúng tự nhiên sẽ ủng hộ ông ta, cũng hy vọng ông ta có thể làm hoàng đế, nên sẽ đồng loạt chạy đến đầu quân, dần dần quân đội của ông ta trở nên càng lúc càng đông, còn của Tưởng nguyên soái thì càng ngày càng ít. Cho dù vũ khí lạc hậu nhưng nhờ có nhiều người, qua thời gian dài tất nhiên sẽ chiếm ưu thế. Chưa kể, Mao nguyên soái trị quân nghiêm minh, tuyệt đối không cho phép binh lính làm hại dân chúng, trong quân đoàn kết một lòng, tất cả đồng tâm hiệp lực cho nên mới có sức mạnh lớn như vậy. Còn về phần thuộc hạ của Tưởng nguyên soái, đa phần đều là tham quan, quân kỷ không nghiêm, nội bộ hỗn loạn, cấp dưới không ngừng tranh quyền đoạt thế. Quân đội như vậy, ban đầu có thể có ưu thế nhờ vào trang bị và số lượng, nhưng về sau sớm muộn gì cũng sẽ thất bại."

Đa Cát nói xong, thấy Sở Kiều không nói gì thì nhất thời có hơi lo lắng, tưởng mình nói gì sai nên vội vàng bổ sung: "Ta cũng cảm thấy, hai người bọn họ không phải chỉ đối kháng về mặt quân sự, mà còn là đối đầu về tư tưởng, đại diện cho hai giai cấp, một là quan viên quý tộc, còn lại là bá tính thường dân. Cũng... cũng giống như cuộc chiến giữa Bắc Yến vương và Đại Đồng Hành vậy."

Cậu vừa nói xong thì lập tức nhận ra mình vừa lỡ lời. Mai Hương đang bóc vỏ hạt sen, nghe nói thì vội vàng quay sang ra dấu với cậu. Nhưng Bình An bên cạnh lại không nhận được ám hiệu, còn thuận miệng hỏi tới:"Vậy tại sao bên Ô tiên sinh lại thua?"

Sở Kiều nhìn Đa Cát, hơi ngây người. Nàng vẫn biết Đa Cát thông minh nhưng lại không ngờ cậu lại thông minh đến bậc này. Nàng chỉ chẳng qua kể một chuyện xưa mà cậu lại có thể qua đó nhìn thấu bản chất của chiến tranh.

Sở Kiều kinh ngạc gật đầu, quay sang nói với Đa Cát: "Mặc dù không hoàn toàn chính xác, nhưng em có thể nghĩ đến mấy điểm này đã là rất giỏi rồi."

Nàng như không hề bận tâm đến việc Đa Cát nhắc đến Yến Tuân, ngược lại còn tỉ mỉ giải thích: "Bất đồng chiến thuật hay tư tưởng chiến đấu đều bắt nguồn từ thế cuộc và sức sản xuất của xã hội thời đó. Đại Đồng Hành không thể so sánh với chính quyền của Mao nguyên soái, Đại Đồng không có tầng lớp lãnh đạo kiên định, nội bộ chưa nhất quán thì không thể xác định tư tưởng và đường hướng, lại không nhiều người có tầm nhìn về chiến lực quân sự. Ngoài ra, Bắc Yến không giống như Hoa Hạ*, không kể đến sức sản xuất thấp, Bắc Yến chưa từng trải nghiệm việc bị dị tộc xâm lược, nội bộ chính quyền vẫn chưa tan rã hoàn toàn, thể chế xã hội vẫn còn đó, dân trí chưa được khai sáng, người dân vẫn chưa biết cách mạng là gì, cũng không biết bản thân có thể đứng dậy đối kháng áp bức đè xuống đầu mình, cho nên bọn họ dĩ nhiên sẽ không toàn tâm toàn ý ủng hộ Đại Đồng Hành. Đa Cát nói rất hay, cuộc chiến trong chuyện ta kể, ngoài mặt là sự tranh đấu quyền lãnh đạo giữa hai thế lực, trên thực tế chính là sự đối kháng giữa hai tư tưởng. Dân chúng Bắc Yến, bản thân bọn họ còn chưa hề có ý thức về tự do thì làm sao có thể mượn lực dân chúng đối đầu với Bắc Yến vương? Vì vậy, thất bại là kết cục đã sớm được định trước của Đại Đồng Hành rồi."

*Hoa Hạ là tên cũ chỉ đất nước Trung Quốc

Ba người nghe nói thì liên tục gật đầu, mặc dù Thanh Thanh và Bình An căn bản chẳng hiểu gì cả.

Đa Cát cẩn thận suy ngẫm, tựa như muốn ghi tạc từng lời Sở Kiều nói vào lòng. Một lúc lâu sau, cậu đột nhiên trở nên mất tinh thần, chán nản hỏi Sở Kiều: "Tiểu thư, theo như lời người nói thì, thể chế mà Mao nguyên soái muốn thành lập, căn bản không thích hợp với xã hội hiện tại của chúng ta, có đúng không?"

"Ừ."

"Vậy tự do bình đẳng gì đó đều chỉ như mộng ước phù du mà thôi."

Nhìn thấy dáng vẻ như đưa đám của cậu thiếu niên, Sở Kiều khẽ cười, dịu dàng nói: "Cũng không hẳn, lưu truyền tư tưởng không phải là chuyện một sớm một chiều. Tất cả đều cần một người mở đường, hôm nay em không thể khích lệ toàn bộ người trong thiên hạ cùng em hoàn thành nó, nhưng em vẫn có thể thử ảnh hưởng một nhóm người, truyền bá tư tưởng này ra ngoài. Giống như một mồi lửa dần dần lan ra, lửa lan trên đồng cỏ, một ngày nào đó sẽ khiến cả cánh đồng bốc cháy."

Đa Cát thoáng sững sờ rồi buột miệng hỏi: "Tiểu thư, những lời này của người, có thể viết thành sách không?"

Sở Kiều vỗ vỗ đầu cậu, cười nói: "Trẻ con rất dễ dạy ."

Đa Cát vui vẻ hoan hô một tiếng, cậu rất ít khi có hành động trẻ con như vậy, hết sức kích động nói: "Ta hiểu rồi, chiến tranh chỉ là mồi dẫn, cách mạng cần nền tảng, xã hội muốn tiến bộ thì đầu tiên phải truyền bá tư tưởng trước."

Mai Hương tiến đến đưa cho cậu chén nước ô mai, nhướng mày nói: "Xem em cao hứng chưa kìa, đầu đầy mồ hôi. Trước khi bắt đầu truyền bá tư tưởng thì uống nước ô mai đi đã, không nước hết lạnh thì uổng phí tâm huyết của ta."

Tất cả nghe nói thì đồng loạt cười thành tiếng, khuôn mặt tuấn tú của Đa Cát hơi đỏ lên, ngượng ngùng ngồi xuống.

Trời tối hẳn, Sở Kiều trở về phòng, bọn Bình An chơi đùa thêm một lúc mới trở về đi ngủ.

Đêm khuya có mưa nhẹ, Sở Kiều tựa bên cửa sổ nhìn ra màn mưa lất phất bên ngoài, thấy phòng Đa Cát vẫn còn sáng đèn thì không khỏi mỉm một nụ cười.

Nháy mắt mà một năm rưỡi đã trôi qua.

Ngày đó sau khi rời khỏi Đường Kinh, nàng đi chưa được bao xa đã bị ba đứa nhóc vốn đang ở trong Mật Hà cư đuổi kịp, bất đắc dĩ phải dẫn bọn họ theo cùng.

Bởi vì tay chân đùm đề trẻ con như vậy, Sở Kiều đành từ bỏ mơ ước phiêu bạc tứ phương của mình. Nàng đến phía nam Biện Đường, tìm một thành trì nhỏ yên tĩnh nhưng có phong cảnh xinh đẹp lưu lại. Nơi này khí hậu ấm áp, cuộc sống yên bình, bởi vì gần với hoàng lăng ở Mi Sơn nên trị an rất tốt, ít có cường đạo thổ phỉ.

Hơn nữa nơi này còn là quê hương của lão tiên sinh Nho giáo nổi danh thông thái khắp Biện Đường là Thẩm Mặc Bạch, nên thường xuyên có thư sinh tìm đến bái kiến Thẩm tiên sinh, thuận đường thăm thú cảnh sắc sơn thủy tựa tranh vẽ của tòa thành nhỏ bé này.

Qua một thời gian dài, thành trì này liền được đổi tên thành thành Học Phủ.

Sau khi Sở Kiều dẫn nhóm Mai Hương vào thành liền mua một khách điếm bắt đầu kinh doanh.

Một là để che giấu tai mắt người đời, dù sao thì một nữ nhân mang theo một nha hoàn cùng ba đứa trẻ mà sống thoải mái thật sự có hơi nổi bật. Hai là cũng để có việc làm tìm vui, nếu cả ngày chỉ ăn với ngủ thì quả thực sẽ chán chết.

Mặc dù kiếm tiền không phải là mục đích chính nhưng nhờ phương thức quản lý mới lạ, điều kiện vệ sinh ưu việt và vị trí đắc địa mà khách điếm Học Tử của Sở Kiều dần trở nên nổi tiếng. Phàm là du khách từ bên ngoài vào thành sẽ chọn khách điếm của nàng làm nơi dừng chân đầu tiên, nhất là hai mùa thi xuân thu, luôn chật ních người, làm ăn hết sức phát đạt.

Thời gian trôi qua như bay, có một hôm chải tóc khi vừa tỉnh dậy, Sở Kiều đột nhiên phát hiện thái dương có tóc bạc. Mai Hương càu nhàu nói là vì nàng không ăn ngủ tử tế. Sở Kiều mỉm cười, quay sang nhìn tóc mai bên còn lại, cũng có vài sợi bạc.

Thân xác già yếu là chuyện không ai tránh được, cho dù hiện tại chỉ mới hai mươi mốt, nhưng nhiều năm bôn ba chiến trường và vô số lần phiêu bạc nơi băng thiên tuyết địa đã khiến thân thể trẻ tuổi của Sở Kiều mắc nhiều chứng bệnh. Những vết thương cũ mỗi lần trở trời sẽ đau thấu xương, đầu gối và các khớp ngón tay sẽ như bị vùi trong tuyết, luôn cứng lạnh như băng, tuy cực nhỏ nhưng khóe mắt nàng đã bắt đầu xuất hiện nếp nhăn, tinh thần cũng càng ngày càng xấu, hơi lao lực liền sẽ mệt mỏi muốn ngủ.

Sở Kiều chân chính trở thành một ấm thuốc, toàn thân chỗ nào cũng có vấn đề, gần như tháng nào bệnh cảm sốt cũng đến viếng thăm. Nhiều khi nằm trên giường, cảm nhận bệnh tật hành hạ, nàng thậm chí từng không biết thân thể này có phải của mình hay không, cảm giác toàn thân cứng ngắc như tượng gỗ bị va đập sắp vỡ vụn thành từng mảnh nhỏ.

Cũng may nhịp độ cuộc sống đã trở nên bình ổn, không còn chiến tranh máu lửa, không còn cảnh chết chóc tàn khốc, không còn mưu đồ ám chiêu khó lường, lòng nàng dần trở nên yên tĩnh tựa như một hồ nước, qua biến động cũng sẽ trở lại trạng thái phẳng lặng.

Hơn một năm này, nàng rất ít khi thăm hỏi thế sự bên ngoài. Nhưng bởi vì bản chất của việc kinh doanh khách điếm, người đến người đi không ngừng, hơn nữa bọn nhỏ thấy hứng thú nên nàng cũng nghe được khá nhiều tin tức.

Ví như hôn sự của Tứ công tử Gia Cát gia và Trưởng công chúa Nạp Lan Hồng Diệp của Hoài Tống. Nghe nói sau khi trở lại Đại Hạ, Gia Cát Nguyệt đã rất sảng khoái đồng ý hôn sự này. Nhưng khi quần thần Đại Hạ đang vỗ tay ăn mừng thì Gia Cát thiếu gia lại móc ra một tờ hôn thiếp, tuyên bố bản thân đã có chính thê ở Thanh Hải, theo tổ huấn thì cho dù Nạp Lan trưởng công chúa vào cửa cũng chỉ có thể làm thiếp, có sinh con cũng chỉ được nâng lên thành thứ phu nhân.

Sứ giả Hoài Tống nghe nói liền tức giận quát mắng mấy câu rồi bỏ về. Sự kiện vốn như tảng đá kích ngàn con sóng dưới bàn tay cao minh của Gia Cát Nguyệt liền trở thành cục sỏi ném vào hồ, thoáng cái đã chìm nghỉm trong gió êm sóng lặng.

Kế đó, là chuyện Thất hoàng tử Triệu Triệt được Gia Cát đại tư mã toàn lực ủng hộ trở về từ biên cương phía Bắc, mang theo năm mươi vạn nô lệ kỵ binh tù binh sau khi bình định phản loạn mở rộng biên giới. Triệu Triệt và Gia Cát nguyệt một xướng một họa, dễ dàng phá hủy vị thế độc tôn của Triệu Dương trên triều.

Cùng lúc đó, Bắc Yến tất nhiên không có ngày lành, Biện Đường đóng cửa thủy lộ Nam Cương ngăn trở thông thương kinh tế giữa Bắc Yến và Hoài Tống, mà Bắc Yến tạm thời lại không có năng lực gây chiến với Biện Đường, Thanh Hải và Đại Hạ hai mặt giáp công đã đủ khiến Bắc Yến khổ nói không hết rồi.

Cũng may Triệu Dương đang bận bịu tranh quyền với Triệu Triệt nên không quá chú trọng binh lực ở Nhạn Minh Quan như trước, suốt hơn một năm cũng chỉ có một lần tổ chức công kích quy mô lớn, thế nhưng cũng chỉ bao quanh Long Ngâm Quan có hai ngày liền thu binh, rõ ràng là chỉ làm cho có lệ.

Thế cục trên đại lục càng lúc càng trở nên khó lường.

Có lẽ Triệu Dương cũng hiểu được, nếu không có uy hiếp từ Bắc Yến, quân đội ở Thanh Hải của Gia Cát Nguyệt sẽ trực tiếp vượt qua Long Ngâm Quan tràn vào hoàng đô Đại Hạ. Khi đó, chỉ dựa vào Tây nam quân của hắn thì không cách gì có thể địch lại hai người Triệu Triệt và Gia Cát Nguyệt.

Vì vậy, nếu nhìn theo hướng khác, hắn và Yến Tuân bất giác lại trở thành đồng minh.

Thế sự đôi khi lại khiến người đời không thể tưởng tượng nổi.

Và chuyện khiến chúng văn nhân thi giả say sưa đàm luận thời gian qua, chính là đại hôn xa hoa của Bắc Yến vương Yến Tuân.

Đầu năm ngoái, hôn lễ của Yến Tuân được cử hành xa hoa ở nội cung Sóc Phương, con gái duy nhất của mười tám vị trọng thần đồng loạt lấy phi vị nhập cung, nhất thời khiến hậu cung trở nên vô cùng náo nhiệt. Tiệc mừng kéo dài suốt mười tám ngày, dân chúng Bắc Yến thi nhau đến trước cung Sóc Phương lễ bái, long trọng nhất từ trước đến giờ, khiến người nhìn mãn nhãn.

Ngày thứ hai của hôn lễ, cung Nạp Đạt trên đỉnh Lạc Nhật rốt cuộc cũng được xây dựng xong, người may mắn đến sớm được chiêm ngưỡng nó đều trầm trồ kêu kỳ quan. Chúng văn nhân thi giả trở về đều đua nhau sáng tác thi văn ca ngợi tòa cung điện lộng lẫy kia.

Nghe nói, cung Nạp Đạt trên núi Lạc Nhật được xây dựng trên sườn núi, một bên là vách đá, mặt còn lại là thác nước nóng tuôn chảy, hoa cỏ lơ lửng trên không trung, suối rượu uốn lượn thơm nồng mười dặm, vách tường bằng đá trắng khảm bạc phản chiếu ánh mặt trời lấp lánh. Khối kiến trúc rực rỡ như nơi ở của thần, ngay cả cung Kim Ngô có hơn ngàn năm lịch sử của Biện Đường cũng không sánh bằng.

*Cảm hứng từ vườn treo Babylon (một trong 7 kỳ quan thời cổ đại): vườn có 7 bậc thềm, đều là một vườn riêng, từ đó mà có tên gọi theo số nhiều là "những vườn treo". Hơn nữa, cả 7 bậc thềm tạo nên một thể thống nhất. Ở vành ngoài mỗi bậc thềm người ta trồng các loại cây leo bò từ bậc thềm này sang bậc thềm khác và liên kết cả 7 vườn riêng lẻ thành một quần thể duy nhất. Quần thể này nom giống như một quả núi xanh mọc thẳng đứng lên với một khối rậm rì những cây, bụi, hàng rào cây xanh và hoa trông như đang treo

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net