Mật mã tây tang 7.1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng
nhau.”

Mẫn Mẫn bị tiếng kêu kinh ngạc của Trác Mộc Cường Ba gây chú ý, lên tiếng hỏi: “Có chuyện gì vậy ạ?”

Trác Mộc Cường Ba nhắc lại phát hiện của pháp sư Á La. Mẫn Mẫn nghe xong, nhìn lại tấm bản đồ, rồi thốt lên: “Ôi chao, thật đúng là... Chẳng phải các con số của người Maya cũng được biểu thị như thế này sao, thế mà chúng ta từ đầu chí cuối cũng không hề nghĩ đến mới lạ chứ.”

Giáo sư Phương Tân lắc đầu nói: “Không, con số của người Maya được biểu thị bằng chấm, gạch và vòng tròn, còn con số này lại biểu thị bằng nét sổ và nét ngang. Đây không phải là chữ số Maya, mà là cách biểu thị con số theo kiểu đếm thẻ của Trung Quốc cổ đại, về cơ bản nó cũng giống như phương thức biểu đạt con số của người Maya, chỉ khác là một dấu chấm được thay bằng một nét sổ mà thôi.”

“Vậy, bộ kinh văn kia là thế nào vậy?” Trác Mộc Cường Ba lại hỏi thêm lần nữa.

Pháp sư Á La liền nhấn giọng đáp từng chữ một: “Đại... Thiên... Luân... kinh!”

Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân cùng ngớ người ra. Đường Mẫn kinh ngạc đưa tay bụm chặt miệng. Không ai ngờ được rằng, tấm bản đồ da sói mà họ trước nay vẫn luôn cho rằng chính là tín vật thứ hai, hóa ra lại chỉ là một phần của tín vật. Còn món tín vật thứ hai thực sự ấy, không ngờ lại chính là pháp điển tối cao của Phật giáo Tạng truyền... Đại Thiên Luân Kinh!”

Pháp sư Á La điềm đạm nói: “Bộ kinh văn tập hợp các đại thành tựu của Mật tông này kể từ ngày đầu tiên xuất hiện trên thế gian, đã toát lên một sự thần bí rồi. Nhân vật đại diện cho giai đoạn Hậu Hoằng kỳ của Tạng truyền Phật giáo, A Để Hiệp đại sư vào Tây Tạng lập đàn giảng kinh, ngay khi bắt đầu giảng về Đại Thiên Luân Kinh đã không ngừng nhấn mạnh, đây là một bộ kinh thư được truyền ra từ Tây Tạng, ngài chẳng qua chỉ là người mang bộ kinh văn này trở về mà thôi. Thế nhưng, không có ai biết bộ kinh thư này là tác phẩm của ai, được viết từ thời kỳ nào. Đồng thời, nội dung bao la vạn tượng trong kinh thư càng khiến người ta không sao đoán nổi, phải là một con người như thế nào mới có đại trí tuệ, có học thức uyên tâm như vậy. Giờ đây, nghĩ kỹ lại, e rằng cũng chỉ có bọn họ mới có năng lực ấy mà thôi!”

Trác Mộc Cường Ba chấn động thốt lên: “Đạo quân Ánh Sáng!”

Giáo sư Phương Tân gật đầu nói: “Đạo quân Ánh sáng là người bảo vệ trông nom Tứ Phương miếu, mà Tứ Phương miếu lại chính là nơi cất giữ toàn bộ kinh văn của Tạng truyền Phật giáo trong thời kỳ đỉnh cao nhất. Không chỉ như vậy, trong đó còn bao gồm cả kinh văn của Bản giáo, và cả các tông giáo từ Ấn Độ và Đại Đường du nhập vào Tây Tạng thời bấy giờ nữa.”

Pháp sư Á La nói: “Vì vậy mới có cách nói, đọc hiểu được Đại Thiên Luân Kinh, tất sẽ đọc hiểu tất cả các kinh văn khác, bởi vì bản thân bộ kinh thư này, chính là tinh túy được đúc rút ra từ tư tưởng của các tông giáo khác nhau.”

“Ồ!” Đường Mẫn thốt lên khe khẽ, Trác Mộc Cường Ba vội nói: “Gì thế Mẫn Mẫn? Em nghĩ ra điều gì rồi à?”

Đường Mẫn nói: “Em nhớ lúc trước tìm tài liệu về Shangri-la, có đọc được một thuyết nói rằng bộ Đại Thiên Luân Kinh này vốn có một vạn hai nghìn bài tụng, nhưng A Để Hiệp đại sư chỉ mang trở về Tây Tạng được có một nghìn hai trăm bài tụng thôi, chín phần mười nội dung còn lại đã thất truyền cả rồi!”

Pháp sư Á La nói: “Đúng vậy, là như thế đó, hơn nữa đây cũng là điều A Để Hiệp đại sư đích thân nói ra. Khi khai đàn giảng về Đại Thiên Luân Kinh, ngài đã nói rất rõ ràng, bộ kinh thư này vốn phải có một vạn hai nghìn bài tụng, nhưng trải qua nhiều trắc trở mất mát, đến được tay ông thì nội dung chỉ còn một phần mười mà thôi.”

Đường Mẫn nói: “Mọi người còn nhớ bản dịch của Cổ Cách kim thư như thế nào không? Lúc sứ giả đến Trác Bất Nhượng, đã thay đổi chủ ý, muốn đem Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu mang đến một nơi xa xôi ở chân trời, đồng thời còn yêu cầu Cổ Cách vương phải bảo quản một món tín vật khác. Ngoài ra, trong bản dịch chúng ta đọc được, cũng có đoạn nói đến Cổ Cách vương đã bí mật đưa tín vật đi, đồng thời lại có đoạn nói tín vật là một tấm bản đồ. Vậy là Cổ Cách vương đã giữ tín vật lại bên mình! Bản thân vị sứ giả kia cũng đã để lại viên hồng bảo thạch trong Cánh cửa Sinh mệnh, rồi đem Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu đưa tới tận châu Mỹ, nếu tham chiếu cách làm của ông ta...”

Giáo sư Phương Tân vỗ lên tay vịn ghế đánh “chát” một tiếng, tiếp lời: “Vậy thì bản dịch không còn mâu thuẫn nữa, đích thực là Cổ Cách vương đã lưu lại một phần tín vật, đồng thời cũng bí mật đưa một phần khác đi xa. Bản đồ da sói và Đại Thiên Luân Kinh bổ trợ cho nhau, chỉ có bản đồ mà không có được đoạn miêu tả trong Đại Thiên Luân Kinh, thì căn bản không biết làm thế nào để đi bước đầu tiên; nhưng nếu chỉ có đoạn miêu tả trong Đại Thiên Luân Kinh mà không có bản đồ, thì cũng không thể nào tìm thấy Shangri-la được!”

Trác Mộc Cường Ba vỗ mạnh tay, hào hứng nói: “Như vậy là chúng ta có thể nhìn rõ được tuyến đường họ đi rồi: một người đi hướng Đông, băng qua Thái Bình Dương; còn người còn lại, đi hướng Tây, đưa kinh văn đến Ấn Độ, hoặc thậm chí là nơi nào đó còn xa hơn cả Ấn Độ về phía Tây. Đây chính là ước định năm đó giữa sứ giả và quốc vương Cổ Cách, tách rời các tín vật ra, đưa tới chân trời góc biển, vĩnh viễn không để chúng gặp lại nhau nữa!”

Giáo sư Phương Tân trầm ngâm suy nghĩ: “Cổ Cách vương không thể nào tự mình mang kinh văn đi được, có lẽ là ông ta phái người...”

Mẫn Mẫn lập tức nói ngay: “Ông ta có phái người đi mà, Cổ Cách vương từng phái đi hai mươi mốt người thông huệ nhất đi về phía Tây cầu pháp!”

Giáo sư Phương Tân và pháp sư Á La đưa mắt nhìn nhau. Trác Mộc Cường Ba lại vỗ đùi nói: “Đúng rồi, kinh thư không giống như tấm gương đồng, bọn họ có thể chia thành nhiều phần mang đi, nếu mỗi người trong hai mốt vị đệ tử đó đều mang đi một phần...”

Pháp sư Á La tiếp lời ngay: “Đại dịch sư Nhân Khâm Tang Bố và Tiểu dịch sư Nga Lôi Tất Hỉ Nhiêu đều bái A Để Hiệp đại sư làm thầy. Nếu đúng là Đại Thiên Luân Kinh bị chia thành hai mươi mốt phần, vậy thì phần A Để Hiệp đại sư có được chính là gần được một phần mười nội dung, vậy nên ngài mới có thể khẳng định rằng, Đại Thiên Luân Kinh được truyền đi từ Tây Tạng, đồng thời bản hoàn chỉnh của bộ kinh thư này tổng cộng có một vạn hai nghìn bài tụng!”

Mẫn Mẫn trợn tròn mắt lên nói: “Chuyện... chuyện này trùng hợp quá!” Giáo sư Phương Tân cũng vỗ mạnh tay lên bàn: “Lịch sử và truyền thuyết, quả đã khớp với nhau ở một mức độ nào đó rồi!”

Pháp sư Á La lắc đầu: “Không! Lịch sử rất ít khi xuất hiện sự trùng hợp, tất cả những gì xảy ra đều có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Cổ Cách vương hướng về Phật pháp, chuyện này không hề sai, nhưng không người nào có thể giải thích được, tại sao Y Tây Ốc Bá lại thành kính đến độ từ bỏ cả vương vị, tại sao ông ta lại đột nhiên nảy ra ý định phái hai mươi mốt đệ tử đến Ấn Độ, về sau lại còn bất chấp tất cả để mời bằng được A Để Hiệp đại sư đến Cổ Cách hoằng dương Phật pháp nữa.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Đúng đó, nếu nói Cổ Cách vương đã sai người đưa Đại Thiên Luân Kinh đi, để bộ kinh thư ấy phân tán khắp nơi trên vùng đất phía Tây, vậy tại sao đến những năm cuối đời, ông ta lại kiên trì mời bằng được A Để Hiệp đại sư, thậm chí còn bất chấp cả tính mạng của mình, đây chẳng phải mâu thuẫn lắm hay sao?”

Giáo sư Phương Tân nói: “Mọi người có cảm thấy, hành vi của Cổ Cách vương rất giống với một người khác hay không, cũng là ban đầu giữ thái độ bài xích, đến những năm cuối đời, lại đột nhiên trở nên cuồng nhiệt theo đuổi, như là bị ma nhập vào vậy.”

Trác Mộc Cường Ba ngập ngừng: “Người thầy nói đến là...”

___________

Chú thích:

1. Thuật ngữ địa lý, chỉ các trầm tích calcium carbonate hình thành do nước chảy trong các hang động.

2. Hệ thống hang động dài nhất thế giới được biết đến cho tới thời điểm này, nằm ở trung tâm bang Kentucky, nước Mỹ.

3. Thuật ngữ địa lý, chỉ các tầng nham thạch trong vỏ trái đất.

Những bước chuẩn bị cuối cùng

Giáo sư Phương Tân nói: “Landa, người đã hủy hoại cả nền văn minh Maya, song đến cuối đời, lại trở thành người khai thác và sưu tầm các di vật của nền văn minh ấy.”

Pháp sư Á La lắc đầu nói: “Không, thái độ của Cổ Cách vương và Landa vẫn khác nhau rất rõ rệt. Từ bản dịch có thể nhận ra, ngay từ đầu vị Cổ Cách vương này đã có thái độ hết sức sùng kính với sứ giả và tín vật của ông ta mang tới, có lẽ, trước yêu cầu của vị sứ giả kia, quốc vương bất đắc dĩ mới phải chia tách bản kinh văn hoàn chỉnh ra, rồi sai người mang đi. Khi sứ giả rời đi hoặc từ trần, quốc vương lại bất chấp tất cả muốn tìm kiếm kinh văn trở về, ấy là bởi ông ta biết, bộ kinh văn này là do người Tạng chúng ta tự biên soạn ra, là một kho báu văn hóa! Nếu Đại Thiên Luân Kinh đúng là tinh hoa văn hiến của Tứ Phương miếu, hoặc là mục lục để tra cứu, vậy thì nó cũng bao hàm cả các thư tịch về tôn giáo, văn hóa, nông nghiệp, thương nghiệp, khoa học kỹ thuật...Hoặc giả, có thể nói rằng, Đại Thiên Luân Kinh hoàn chỉnh thực sự, chính là một bộ đại bách khoa toàn thư bao hàm tất cả các phương diện của Thổ Phồn, Đại Đường và Ấn Độ vào thời kỳ toàn thịnh nhất!”

Mẫn Mẫn hoan hô nhảy cẫng lên: “Tốt quá rồi, vậy bộ kinh thư đó ở đâu ạ? Nói không chừng còn tìm được trong đó nhiều thông tin liên quan đến Bạc Ba La thần miếu nữa ấy chứ!”

Pháp sư Á La cười cười nói: “Khoảng thời gian trước mọi người tra tìm tư liệu về Bạc Ba La thần miếu, chẳng phải là đã xem qua rồi hay sao?”

Mẫn Mẫn ấp úng: “Đó... nhưng cháu chỉ xem bản in thôi, còn nguyên văn...”

Pháp sư Á La lắc đầu nói: “Lấy đâu ra bản thảo gốc của Đại Thiên Luân Kinh nữa chứ! Kể từ khi A Để Hiệp đại sư khai đàn giảng Đại Thiên Luân Kinh, bộ kinh văn này đã trở thành tư tưởng hạt nhân của rất nhiều giáo phái trong Hậu hoằng kỳ của Phật giáo Tây Tạng, đại để địa vị cũng giống như sách Luận Ngữ đối với Nho gia vậy. Tư tưởng của Khổng Tử được kế thừa tiếp nối, nhưng còn văn tự năm xưa Khổng Tử đích thân viết ra thì còn ai tìm được nữa đâu? Mà dù là chúng ta có tìm được bản gốc của Đại Thiên Luân Kinh chăng nữa, phần được lưu truyền lại đó cũng chỉ đề cập đến phương diện tôn giáo mà thôi, dù sao thì cũng chỉ có một phần mười nội dung.”

Mẫn Mẫn nói: “Thế nhưng, không phải pháp sư đã nói, trong giáo của ông có bậc tiền bối đã nhìn thấy, nhìn thấy cái hình vẽ đó sao? Hình vẽ ấy không phải ở trong Đại Thiên Luân Kinh ạ?”

Pháp sư Á La lắc đầu cải chính: “Là một mảnh còn sót lại của Đại Thiên Luân Kinh. Đúng thế, ở chỗ chúng tôi có bản gốc của Đại Thiên Luân Kinh, nhưng là một trang kinh văn rách bươm, đại khái chỉ có một phần bảy của trang sách thôi. Mà thứ đó cũng đang được vị trưởng lão có trí huệ và Phật tính cao nhất bảo quản, với thân phận như của chúng ta...” Pháp sư Á La lại lắc lắc đầu.

Giáo sư Phương Tân nói: “Chúng ta đã tìm được đủ các thông tin trong bộ Đại Thiên Luân Kinh được lưu truyền đến ngày nay rồi, dù có được xem cả bộ Đại Thiên Luân Kinh hoàn chỉnh cũng chưa chắc có thu hoạch gì hơn đâu. Thêm nữa, biết đâu còn có những bộ kinh văn khác cũng sử dụng phương thức giống như vậy để biểu thị số trang? Tấm bản đồ da sói ấy chưa chắc đã là một phần của Đại Thiên Luân Kinh, tất cả chỉ là phán đoán của chúng ta mà thôi. Tốt hơn hết hãy tập trung tinh lực vào các tài liệu lịch sử và những gì mới thu thập được lần này đi.” Giáo sư Phương Tân vuốt món tóc bạc trước trán. Lúc này, ông tuyệt đối không thể nào nghĩ ra được, từ Đại Thiên Luân Kinh đến đế quốc Mông Cổ, đến đảng Quốc Xã ở Đức, lại có hàng trăm hàng ngàn mối dây liên hệ gắn bó.

Khoảng thời gian tiếp sau đó, các công việc chuẩn bị được tiến hành nhanh chóng và trật tự. Thông qua nhiều kênh khác nhau, Giáo sư Phương Tân đã gửi mẫu da bọn Trác Mộc Cường Ba thu thập được và kết cấu khung thuyền đến chuyên gia trong những ngành hữu quan, đều là bạn bè của giáo sư, hoặc là bạn của bạn. Đương nhiên, bọn họ cũng chẳng ngồi không đợi chờ kết quả, mà đống tài liệu lịch sử đã bị lật đi lật lại đến nát nhừ kia lại được đặt lên mặt bàn. Ngoài ra mọi người còn được bổ túc cấp tốc các kiến thức liên quan tới núi lửa. Trác Mộc Cường Ba thì tập trung vào việc huấn luyện chó ngao trong suy tưởng. Tựa hồ như gã đã trở lại với thời kỳ đầu khi tập đoàn Thiên Sư mới thành lập, một đám chó ngao vây quanh. Gã nghiền ngẫm nghiên cứu đi nghiên cứu lại từng động tác, từng âm thanh nhỏ nhặt của vị Thao thú sư thời cổ đại, có lúc đang ngủ say cũng bỗng nhiên quát lên ra lệnh cho chó ngao, bị Mẫn Mẫn cằn nhằn cho mấy lần.

Đồng thời, Trác Mộc Cường Ba cũng đang dần dần thích ứng với cương vị đội trưởng. Quan hệ trong tập thể của họ lúc này hết sức vi diệu tế nhị, Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và pháp sư Tháp Tây tỏ ra gần gũi hơn một chút, lẽ đương nhiên, thời gian đội trưởng Hồ Dương và những đồng đội cũ của anh ở với nhau cũng tương đối nhiều, tuy Trương Lập và Nhạc Dương ai cũng có việc riêng của mình, nhưng người trẻ tuổi xưa nay vẫn thích tụ tập với nhau. Ba Tang vẫn giữ vai sĩ quan huấn luyện lạnh lùng khắc nghiệt, Sean thì giỏi giao tiếp, nên nói chung cũng khá thoải mái với mọi người. Vương Hựu hơi độc lập một chút, gần giống với pháp sư Á La lúc ông mới gia nhập nhóm. Trong cái nhóm nhỏ này của bọn họ, Mẫn Mẫn và Lữ Cánh Nam hễ chạm trán nhau là liền có một cảm giác đối địch ngấm ngầm, còn Lữ Cánh Nam thì lúc nào cũng nhắc nhở Trác Mộc Cường Ba chú ý, phải biết lựa chọn thông tin mà nói với tất cả mọi người. Nhóm Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La, pháp sư Tháp Tây hình như đều ngầm phản đối những người mới gia nhập về sau, từ đầu chí cuối luôn giữ một khoảng cách với các thành viên mới, đặc biệt là Sean và Vương Hựu, kể cả Ba Tang nữa. Trong khi đó, Nhạc Dương, Trương Lập, và Sean lại thích chỗ đông người, chỗ nào cũng không thể thiếu mặt bọn họ được.

Trác Mộc Cường Ba cần phải để các bên dung hòa, khiến đội ngũ này trở thành một thể hoàn chỉnh thống nhất, chứ không vì một vài mâu thuẫn xung đột nhỏ mà dẫn đến rạn nứt tình cảm.

Trương Lập kiểm tra xong thiết bị máy móc, chuẩn bị mang theo một số dụng cụ mới trở lại U Minh hà. Về mặt trợ thủ, ngoài pháp sư Á La ra, Lữ Cánh Nam giới thiệu thêm pháp sư Tháp Tây. Nghĩ phía tôn giáo cũng cần phải tìm hiểu một cách toàn diện về Cánh cửa Địa ngục, Trác Mộc Cường Ba liền gật đầu đồng ý. Lần này bọn Trương Lập còn mang theo một số thiết bị định vị, Lữ Cánh Nam nói có thể sử dụng máy bay trực thăng, thả đồ đạc cần thiết xuống khu vực gần Cánh cửa Địa ngục. Như vậy thì dù máy bay trực thăng có bị vệ tinh theo dõi giám sát, đối phương cũng không thể nào tìm ra vị trí cụ thể của Cánh cửa Địa ngục.

Mẫu vật giáo sư Phương Tân nhờ các chuyên gia kiểm nghiệm cũng đã có thông tin phản hồi. Thứ đầu tiên có kết quả là con tằm ngọc. Một chuyên gia giám thưởng châu báu vừa nhìn đã nhận ra ngay đó không phải tằm ngọc bình thường, mà là một con côn trùng sống hóa thạch. Thông thường, loại đá quý này thuộc dòng đá opa(l), tuổi ước chừng cũng phải trên trăm triệu năm. Trải qua những biến thiên địa chất đặc thù, dưới áp suất cao và nhiệt độ thấp, tinh thể silic dần dần thay thế hình thái sinh học vốn có của động hoặc thực vật, chuyển hóa thành loại bảo thạch có độ cứng từ 6.5 đến 7.01, thường thấy nhiều trong những khu rừng nguyên sinh ở Việt Nam, Myanmar. Loại tinh thể hóa thạch được gọi là “thụ hóa ngọc” này được liệt vào danh mục những bảo thạch cực phẩm cũng mới chỉ một hai chục năm gần đây mà thôi.

Hai ngày sau, báo cáo chất lượng không khí được gửi đến. Chất lượng mẫu không khí bọn Trác Mộc Cường Ba mang về rất tốt, thậm chí có thể nói là còn hơn cả tốt, hoàn toàn thích hợp để con người hít thở, không hề có bất cứ tạp chất độc hại nào.

Lại hai ngày nữa, báo cáo hóa nghiệm về thành phần nước cũng đã có, sắc độ, độ cứng, tổng số quần thể vi sinh vật, các loại nguyên tố hóa học... Tổng cộng mấy chục nội dung hoàn toàn phù hợp với tiêu chuẩn nước uống được, hơn nữa hàm lượng ozone trong nước còn cao hơn cả nước khoáng thiên nhiên được tăng thêm oxy hoạt tính; khả năng điện giải cao hơn nước ion rất nhiều; hoạt tính của phân tử nước cũng cao hơn nước nhiễm từ ở trạng thái tĩnh, hơn nữa thành phần còn tương đối ổn định, có thể giữ được một thời gian dài không bị ảnh hưởng bởi môi trường bên ngoài. Nghe giáo sư nói, nghiên cứu viên kiểm tra mẫu nước ngầm đó sau khi kiểm định còn nêu đề xuất lập kế hoạch hợp tác khai thác bán làm nước uống đóng chai, bảo rằng loại nước này còn tốt hơn vô số các loại nước khoáng, nước tinh khiết, nước sinh thái gì đó hiện đang bán trên thị trường không biết bao nhiêu lần.

Một tuần sau, giáo sư Phương Tân nhận được báo cáo hóa nghiệm của mẫu nham thạch. Theo các phân tích, đó là khoáng chất rhyolite, xác định tuổi đá phải phân tích đồng vị tinh thể zirconium cụ thể. Nhưng tuổi của mẫu vật ít nhất cũng phải mấy trăm triệu năm rồi, nói không chừng còn vượt qua cả vách đá hoa cương phiến ma(2) ở khu vực phía Đông tỉnh Hà Bắc Trung Quốc để trở thành loại đá có tuổi đời xa xưa nhất của Trung Quốc. Độ cứng theo thang Knoop là 23, độ cứng theo thang Mohs là 7.8, chẳng trách hôm đó Trương Lập phải rất vất vả mới đục ra được; tỷ trọng 4.6 - 4.71, tỉ lệ chiết xạ 1.93 đến 2.01, nhiệt độ nóng chảy 2550 độ celcius. Nước bóng màu mỡ, mật độ 5.8/ cm2, có chứa các chất hóa học như zirconium, titanium, silicon...

Lại thêm mấy ngày nữa, kết quả phân tích thứ cát mịn Nhạc Dương lấy trong khoang thuyền cũng được gửi về. Theo báo cáo hiển thị, thành phần tách ra gồm có cát, đất sét, xác vi sinh vật. Trong đó, chất cát rất mịn, đường kính hạt cát chỉ từ 0.15 đến 0.25mm, thành phần chủ yếu vẫn là silicon dioxide, chỉ có điều hàm lượng clo và các tạp chất khác tương đối nhiều. Chất đất chủ yếu là đất sét, đã được gửi tới tổ nghiên cứu trường Đại học Địa chất Trung Quốc để phân tích, thành phần cụ thể phải đợi thêm một thời gian nữa mới biết được.

Mấy người bọn Trương Lập cũng đã trở về. Từ báo cáo hàng ngày của họ, Trác Mộc Cường Ba đã biết tính năng chống va chạm, phòng chấn động của con thuyền này thực sự là không thể nào tốt hơn được nữa. Dù với trình độ khoa học kỹ thuật của ngày nay, cũng chưa chắc đã có thể làm ra được một con thuyền bền chắc như vậy. Nhờ cố gắng của Trương Lập, rất nhiều trang thiết bị hạng nặng đã được lắp đặt cố định xong xuôi, chỉ cần đợi các thành viên mới kết thúc đợt huấn luyện đặc biệt là có thể xuất phát được.

Nhưng còn một điểm khiến mọi người phân vân, đó là về vật liệu làm thuyền... Khung thuyền và lớp da bọc là gì - từ đó đến giờ vẫn chưa có kết quả. Giáo sư Phương Tân đã mấy lần liên lạc thúc giục, nhưng câu trả lời chỉ là: “Đang phân tích, đừng nôn nóng.”

Trác Mộc Cường Ba vẫn muốn đợi thêm một thời gian nữa, nhưng tình thế đã không cho phép gã làm vậy. Các thành viên còn lại còn nôn nóng hơn cả gã. Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và pháp sư Tháp Tây đều lo lắng để lâu sẽ phát sinh biến cố, giờ đây người đông miệng lắm, nếu tin tức bị lộ ra ngoài, đối thủ của họ rất có khả năng sẽ vượt lên đến Shangri-la trước một bước. Bọn Vương Hựu và Sean cũng hết sức nôn nóng, giống hệt như Trác Mộc Cường Ba lúc vừa hoàn thành đợt huấn luyện đặc biệt chuẩn bị lên đường sang châu Mỹ vậy. Ai nấy đều cho rằng mình đã đạt tới trình độ xưa nay chưa từng có, trong lòng tràn đầy tự tin muốn thử xem thân thủ mình thế nào một phen. Trương Lập và Nhạc Dương cũng đã hoàn thành công tác lắp đặt và cải tạo trang thiết bị cần dùng. Tuy Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn chưa có tiến triển

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net