Untitled Part 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng




                  

Nhắc đến vị Điện soái thượng tướng quân dưới đời vua Trần Anh Tông, oai phong lẫm liệt, uy danh lẫy lừng, thoạt nghe những tưởng chỉ có thể múa giáo chốn sa trường song mấy ai ngờ rằng tướng quân cũng chẳng kém tài khi múa bút. Phạm Ngũ Lão – cái tên mỗi lần nêu đến người đời lại chẳng tiếc chi mà kèm theo bốn chữ "văn võ toàn tài". Có thể vì là một võ tướng nên ngòi bút của ông để lại cho đời không nhiều tác phẩm nhưng tất cả đều là những danh tác vươn đậm hơi thở của hào khí Đông A – cái khí thế bất khuất của triều đại mà ông đang sống. Tiêu biểu nhất trong đó là tác phẩm "Tỏ lòng",  bài thơ mang trọn khí thế hào hùng của một thời đại và hoài bão lớn lao của vị danh tướng khi tuổi đời ông còn rất trẻ.

            Tỏ lòng là bài thơ được Phạm Ngũ Lão chấp bút viết nên trong không khí quyết chiến quyết thắng của quân dân đời Trần khi lực lượng nước Đại Việt đã lớn mạnh nhưng vẫn chưa đi đến thắng lợi cuối cùng trong cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên. Có ai mà ngờ được từ một người anh hùng xuất thân bình dị, ngồi đan sọt mà lo việc nước, đến một vị dũng tướng anh minh cơ trí, có thể viết nên những vần thơ bày tỏ lòng mình, viết nên những khát khao, những hoài bão, những quan điểm cao đẹp bằng những vần thơ hay và sâu sắc đến vậy. "Tỏ lòng" là niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quóc bị xâm lăng, hay nói cách khác bài thơ chính là bức chân dung tự họa của chính tác giả:

"Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu."

      Như đấy mở đầu bài thơ là hình ảnh người tráng sĩ cầm ngang ngọn giáo, dáng đứng đầy uy nghiêm, hùng dũng, kiên cường, tư thế sẵn sàng chiến đấu vì tổ quốc, không ngần ngại trước mọi giặc thù mưu đồ xâm lược... thoắt chốc đã làm hiện lên một khí thế áp đảo, nguồn sức mạnh to lớn tiềm tàng trong hai chữ ngắn gọn – "hoành sóc". Song bản dịch thơ lại dịch "múa giáo", phần dịch tiếc thay đã làm mất đi vẻ oai vệ chắc chắn của hình ảnh, có vẻ hơi thiên về phô diễn động tác, chưa lột tả hết ý nghĩa cất chứa trong từ "hoành sóc".  Hình ảnh người tráng sĩ oai hùng đó không được đặt vào nơi chiến trường tan hoang, dữ dội, Phạm Ngũ Lão lại mang nó đặt vào không gian rộng lớn, bao la của giang sơn đất nước, vào chốn núi non trùng điệp, sông xanh nước biếc như tranh họa đồ. Lấy không gian kỳ vĩ, bạt ngàn ấy làm thước đo, ông đo ngọn giáo trên tay người tráng sĩ bằng chiều ngang của non sông, đo tầm vóc người cầm giáo bằng kích thước của đất trời. Có núi sông làm bức nền, hình ảnh ấy lại càng thêm lớn lao, nổi bật. Ra chiến trường theo tiếng gọi của con tim yêu nước, trách nhiệm chiến đấu và chiến thắng luôn đè nặng trên vai, để mang được gánh nặng đó đòi hỏi bên trong con người phải có một nghị lực cùng lòng quả cảm phi thường biết nhường nào. Xuất phát từ tinh thần làm chủ đất nước vô cùng sâu sắc, ý chí bảo vệ đất nước rất mực kiên cường, tầm vóc của người tráng sĩ đã được Phạm Ngũ Lão nâng lên một tầm cao mới, sánh ngang với vũ trụ đất trời. Vẫn không dừng lại ở đó, tư thế hiên ngang, tầm vóc hoành tráng ấy lại được đo bằng một thước đo khác, thước đo của thời gian.             "Kháp kỉ thu" – trải mấy thu, đã qua bao lần thu đến rồi đi, hình ảnh kia vẫn không một chút suy dời, vẫn vững vàng như vậy, vẫn oai vệ như thế bởi nó đâu phải được gầy dựng trong một phút chốc để dễ dàng tan biến như một thoáng qua, hình ảnh người tráng sĩ thời Trần đã được hun đúc từ bao nhiêu cuộc chiến, bao nhiêu thử thách chông gai. Song dù có cam go đến mấy, hiểm nguy đến mấy, bóng người cầm ngang ngọn giáo ấy vẫn vững vàng tư thế, vẫn bền bỉ mãi chẳng chuyển dời.

      Có ai tưởng tượng được, qua ngòi bút của một vị danh tướng, chỉ với bảy chữ ngắn gọn, nhịp 4/3 chắc khỏe kết hợp với thanh trắc và giọng điệu hào hùng, thế đứng sức mạnh của người tráng sĩ, hình ảnh con người kỳ vĩ, không gian kỳ vĩ, thời gian kỹ vĩ,...tất cả đã được Phạm Ngũ Lão lột tả trọn vẹn chỉ trong một câu thơ. Nếu duy chỉ một người tráng sĩ đã mang tầm vóc cao rộng đến thế, thì hình ảnh toàn đội quân Sát Thát sẽ chứa đựng một nguồn sức mạnh áp đảo, vô địch đến nhường nào? Như Phạm Ngũ Lão đã miêu tả, "tam quân tì hổ" -  hình ảnh ẩn dụ vật hóa làm bật lên khí ba quân mạnh như hổ báo. Như "Bạch Đằng giang phú" của Trương Hán Siêu cũng có viết:

"Thuyền bè muôn đội

Tinh kì phấp phới

Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói."

Tinh thần tự cường cùng con tim yêu nước đã cho toàn quân sức mạnh: nhanh như báo và khỏe như hổ, không ngần ngại trước mọi kẻ thù, nghìn người như một, với lòng trung quân ái quốc, gương cao ngọn cờ dân tộc, quyết chiến quyết thắng vì một đất nước Đại Việt mãi mãi trường tồn. Khí thế mạnh mẽ đến nỗi có thể nuốt trôi trâu, rực rỡ đến nỗi lất át cả sao Ngưu trên trời. Lại là một câu thơ với nhịp bốn ba và thanh trắc quen thuộc, thêm lối nói cường điệu, hình ảnh đội quân Sát Thát chẳng mấy chốc đã được nhà thơ tạc nên, một đội quân đánh đâu thắng đó, thật oai vệ, thật dũng mãnh, thật phi thường... Mấy ai làm được như Phạm Ngũ Lão, chỉ với hai câu thơ ngắn ngủi ông đã khắc họa vô cùng thành công tư thế của nhân vật trữ tình -  kẻ làm trai thời Trần và tư thế đứng sức mạnh của cả một dân tộc trong một trang sử đầy vẻ vang với một tầm vóc lớn, một quyết tâm lớn. Nhân vật trữ tình mang trong mình tầm vóc sử thi, vẻ đẹp sử thi. Nếu một cá nhân mang vẻ đẹp của đất trời, sông núi, vượt qua bao thử thách của thời gian, thì nhiều cá nhân sẽ tạo nên khí thế dũng mãnh, ngất trời của ba quân. Từ đó lại thêm tô điểm cho hình ảnh tráng sĩ càng thêm cao lớn, lồng lộn giữa đất trời. Mỗi cá nhân đều tìm thấy bóng dáng, tìm thấy vị trí của bản thân mình trong hào khí chung của dân tộc. Một thời đại cao đẹp của những con người cao đẹp.

       Nếu hai câu thơ đầu, nhịp thơ 4\3 đi thật mạnh mẽ, hào hùng thì đến đây, hai câu thơ cuối, nhịp điệu ấy như khựng lại, như lắng lại nhường chỗ cho một nốt trầm vang lên cùng lời bộc bạch, nỗi lòng tha thiết muốn tâm sự, giải bày của nhà thơ. Và nếu hai câu đầu, Phạm Ngũ Lão tập trung thể hiện khí thế và sức mạnh quyết chiến quyết thắng, niềm tự hào trước truyền thống dân tộc và chiến công thời đại thì ở hai câu cuối cùng, ông khép lại bài thơ bằng cái chí làm trai và ý thức trách nhiệm cao cả trước nhân dân đất nước.

"Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu."

Bản dịch thơ viết "Công danh nam tử còn vươn nợ" -  Vẻ đẹp của người làm trai thời Trần không chỉ thể hiện ở cái tư thế, khí phách, tầm vóc, sức mạnh mà còn thể hiện ở cái chí, cái tâm của người tráng sĩ. Cái chí, cái tâm ấy gắn liền với quan niệm chí làm trai. Đây không chỉ là lí tưởng riêng mỗi mình Phạm Ngũ Lão, chí làm trai đã trở thành một tư tưởng vô cùng tích cực của xã hội phong kiến đương thời, là lí tưởng của mọi trang nam tử. Về sau Nguyễn Công Trứ với "Chí làm trai" có viết:

"Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông."

Hay như Phan Bội Châu cũng từng chấp bút:

"Làm trai phải lạ ở trên đời

Há để càn khôn tự chuyển dời."

Trong quan niệm của Phạm Ngũ Lão đã làm trai là phải để lại được tiếng thơm cho đời. Song đã muốn được ghi danh thì phải lập công, dưới triều đại Đông A, con đường lập công rõ ràng nhất chính là làm nên nghiệp lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc trước sự xâm lăng của giặc Mông – Nguyên. Ai cũng muốn đền ơn vua , báo nợ nuớc. Như đấy, trong thời đại anh hùng mới sinh ra những khát vọng anh hùng là vậy. Họ đang gánh vác trên vai sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của chính mình. Đây quả là một quan niệm nhân sinh cao đẹp, tích cực của những con người chân chính, đặc biệt là của kẻ làm trai trong thời đại chiến tranh, loạn lạc. Là một niềm khao khát rất chính đáng, rất đáng ngưỡng mộ và quý trọng, khao khát làm nên sự nghiệp, giết giặc lập công, ghi danh sử sách, lưu lại tên tuổi cho hậu thế về sau. Song Phạm Ngũ Lão viết "vị liễu" tức chưa trả xong. Theo quan điểm của chí làm trai mà nói, thứ chưa trả xong, thứ còn vươn nợ không gì khác ngoài công danh. Công danh chính là món nợ đời phải trả, hơn nữa thứ "Công danh" mà nhà thơ nói đến trong bài là thứ công danh được làm nên bằng máu xương và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ "công danh" tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm. Trả xong nợ công danh có nghĩa là hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước. Quan niệm lập công danh đã trở thành lý tưởng sống của trang nam nhi thời phong kiến. Nó đã cổ vũ con người từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì sự nghiệp lớn lao "cùng trời đất muôn đời bất hủ".

      Phạm Ngũ Lão cũng từ cái chí, cái nợ nam nhi, nam tử đó mà cùng dân tộc chiến đấu chống xâm lược bền bĩ, ròng rã bao năm. Đặc biệt ở đây cũng từ cái chí, cái nợ đó mà nảy sinh trong tâm một nỗi thẹn. "Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu" Vũ Hầu tức Gia Cát Lượng, vị quân sư mưu lược như thần của Lưu Bị, ông đã dùng hết tài năng của mình, một lòng phục vụ, hầu hạ cho chủ công, giúp Lưu Bị khôi phục nhà Hán, một con người cao quý vừa có tài, vừa có tâm. Cái thẹn của Phạm Ngũ Lão ở đây chính là thẹn với Gia Cát Lượng, thẹn vì thua kém, ông thẹn mình vẫn chưa đủ tài trí, chưa lập được công danh, chưa trả xong nợ nước. Song ông có đáng thẹn như vậy không, bởi Phạm Ngũ Lão – một con người uy danh lừng lẫy, đánh đông dẹp bắc, hai lần giúp vua Trần đánh đuổi giặc Mông – Nguyên. Dẫu tuổi đã cao song vẫn không từ nan, vẫn còn hăng hái cầm quân đánh tan bọn xâm lược lăm le gây rối phía tây tổ quốc. Một vị "Điện soái thượng tướng quân" khi mất dẫu không thuộc hoàng thân quốc thích nhưng vẫn được vua nghỉ chầu năm ngày để tưởng nhớ. Tiếng thơm lẫy lừng, vinh quang rực rỡ đến vậy mà ông không chút tự hào thõa mãn, trái lại ông còn cảm thấy day dứt vì cảm thấy mình chưa trả xong nợ công danh, chưa hoàn thành nghĩa vụ với đời, ông vẫn cảm thấy hổ thẹn khi nghe người đời kể chuyện Vũ Hầu. Đây chính là cái thẹn cao cả, cái thẹn từ tâm, cái thẹn làm nên nhân cách, là cái thẹn của nhân cách. Hơn nữa, xưa nay Khổng Minh vốn nổi tiếng vì lòng trung thành với chủ công "Cúi mình tận tụy, đến chết mới thôi", nên cái thẹn của Phạm Ngũ Lão thực chất còn là lời thề trung thành, suốt đời một lòng vì chủ tướng Trần Hưng Đạo. Những con người có nhân cách cao cả, thường không thiếu trong tâm những nỗi thẹn như vậy. Tựa Nguyễn Khuyến cũng từng bày tỏ cái thẹn với Đào Tiềm qua bài thơ "Thu vịnh":

"Nhân hứng cũng vừa toan chấp bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào."

Nỗi thẹn ấy không làm cho con người trở nên nhỏ bé mà trái lại nâng cao phẩm giá con người. Đó là cái thẹn của một con người có lý tưởng, hoài bão vừa lớn lao, vừa khiêm nhường. Nỗi thẹn của một con người luôn dành trọn cái tâm cho đất nước, cho cộng đồng. Như vậy, Phạm Ngũ Lão vừa đề cao cái chí, vừa đề cao cái tâm của con người Việt Nam đời Trần. Đó chính là con người hữu tâm trong thơ ca trung đại Việt Nam. Thẹn ở đây là bài học sống, là lời tự nhủ, là khát vọng vương lên của tác giả. Biết chừng đây cũng là lời Phạm Ngũ Lão muốn truyền đạt đến những binh sĩ, những đồng đội của ông về một ý chí, khát vọng cống hiến, lập công danh, không phải vì cái tôi cá nhân mà là vì cái ta chung của dân tộc, đây chính là động lực to lớn cho tráng sĩ dưới triều đại Đông A nói riêng và con người trong mọi thời đại nói chung có đủ sức mạnh để kiên cường vượt qua thử thách, khó khăn, lập nên những chiến công vang dội.

      Như vậy, hào khí Đông A ở đây không đơn thuần là lòng yêu nước căm thù giặc, tinh thần quật khởi, niềm tự hào dân tộc mà nó còn là những tâm tư sâu kín của con người, là tâm sự đáng kính của kẻ làm trai đất Việt, là tâm trạng của cả một thế hệ trai tráng thời bấy giờ. Thể hiện rõ nhất khi xuyên suốt bài thơ không hề có lấy một đại từ nhân xưng nào. Những con người suốt ngày canh cánh trong lòng thù nhà nợ nước, đặt trách nhiệm gánh vác sự an nguy đất nước lên đôi vai mình. Hào khí ấy đã làm nên những chiến thắng lẫy lừng lưu danh sử sách.

"Thuật hoài" – bài thơ tỏ lòng Phạm Ngũ Lão, là bức chân dung phản chiếu con người ông, cái chí và cái tâm của người làm trai thời đại. Tỏ lòng mang trong mình cái khí thế hào hùng của cả một thời đại, khát vọng, hoài bão lớn lao đang ngày đêm nung nấu trong lòng vị tướng trẻ. Bằng thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, kết hợp cùng những phép tu từ so sánh phóng đại, đặt con người trong mối tương quan không gian với thời gian, thêm âm hưởng hào hùng, nhịp điệu chắc khỏe, ngôn ngữ hàm xúc, tinh luyện cô đọng và những điển cố điển tích Phạm Ngũ Lão đã tái hiện lại một cách hoàn mĩ nhất hình ảnh trang nam nhi, sức mạnh và khí thế của quân đội nhà Trần, ngân lên một nốt thăng của hào khí Đông A mà cho đến ngày nay vẫn còn vang vọng mãi.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net