Phần 29

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

NGƯƠI BIẾT MÌNH ĐANG ĐI ĐÂU ĐẤY CHỨ?

Tôi thức tỉnh giữa bóng tối. Tôi tỉnh ngay lập tức, hai mắt mở thao láo, nhưng tôi chẳng nhìn thấy gì cả. Tôi có thể cảm nhận được nhờ các đặc điểm của thành phần không khí nơi đây (độ ẩm, độ đặc loãng) rằng mình đang ở trong một không gian kín. Không khí nặng nề đến nỗi gần như không thể thở nổi, với mùi gỗ mục, và tôi đang nằm ngửa. Một cảm giác ngột ngạt đáng sợ bao trùm lên tôi.

TA Ở ĐÂY RỒI.

Tôi có thể nghe được - không, cảm nhận được - sự sung sướng trong giọng nói của con rắn; mụ ta đang hạnh phúc với việc ký sinh trong xương sống của tôi hơn bao giờ hết. Morphine đã giúp kiềm chế mụ ta nhưng giờ đây, tại nơi này, cái rào chắn đó đã bị dỡ bỏ. Con rắn cuồng loạn ăn mừng.

NGƯƠI CHẲNG THỂ CẢN ĐƯỢC ĐÂU.

Tôi cố vươn hai cánh tay ra nhưng tay tôi chạm vào những rào chắn ở mọi phía, chỉ cách có độ chục phân. Gỗ phẳng và nhẵn. Gần một mét chiều rộng, gần hai mét chiều dài; kích thước cơ thể tôi. Đối với con người, chỉ có duy nhất một cái hộp có kích cỡ thế này.

NGƯƠI ĐANG NẰM TRONG QUAN TÀI.

Điều này không có thật. Tôi cố nhớ lại mọi thứ. Tôi đã biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu ngưng dùng morphine, vì thực sự tôi cũng đang trong tình trạng đó, không phải trong cái mộ tưởng tượng này. Tôi đã nghiên cứu, như một sinh viên khẩn khoản cầu nguyện bài kiểm tra sẽ bị hoãn lại, về việc cai nghiện. Đột ngột bỏ morphine không phải chuyện gì nguy hiểm đến tính mạng, như chuyện hay xảy ra với những loại thuốc gây nghiện khác, nhưng nó có thể gây ra những ảo giác kỳ lạ. Rõ ràng đây là một trong số những ảo giác ấy.

Có quá nhiều lý do để không tin vào chuyện này. Làm sao tôi có thể bị lôi ra từ phòng ngủ rồi bị chôn mà không hề hay biết? Nếu gỗ quan tài đã mục ruỗng đến mức này, làm sao tôi có thể ở dưới đất lâu đến thế? Làm sao trong đây vẫn còn có ôxy? Tất cả những chuyện này đều không thể xảy ra; vì thế, tôi chỉ đang bị ảo giác thôi.

Nhưng liệu những người bị ảo giác có đủ tỉnh táo để nhận ra điều đó không? Không phải tất cả mọi ảo giác đều được mặc định, theo nghĩa thông thường, là rất vô lý sao? Tôi không hề có cảm giác mình đã bị tách rời khỏi hiện thực; thực sự, chuyện này quá giống thực tế. Những người đang bị ảo giác có thể phân biệt chất lượng không khí không? Họ có nghĩ được là gỗ đóng quan tài mất bao lâu để mủn ra không, hay họ có nghĩ được bọn sâu bọ cần bao lâu để chui vào quan tài không? Nếu tôi thực sự đang chịu tác dụng của việc ngừng dùng thuốc đột ngột, tại sao tôi lại không lên cơn thèm thuốc? Vì thế dù tôi biết rằng chuyện này không thể có thật, tôi vẫn phải băn khoăn vì sao tôi lại hỏi cái câu logic đến thế?

Tôi liền nhận ra ngay những con nghiện cố bỏ thuốc sẽ mất tỉnh táo y như kiểu những triệu phú vô lo vô nghĩ mất tiền của: dần dần, rồi độp một cái. Sau khi xem xét mọi thứ cẩn thận, tôi ngay lập tức mất luôn khả năng kiểm soát xem cái gì mới được coi là đối lập hoàn toàn với một khám phá bất ngờ: thay vì tất cả những suy nghĩ của tôi cùng xuất hiện rõ ràng, chúng cùng nhau bật khỏi trí óc tôi như những nạn nhân cố gắng thoát khỏi tâm chấn động đất vậy.

Dù rõ ràng không có chỗ để nạy nắp quan tài lên, tôi vẫn điên cuồng tung những cú đấm của mình ra xung quanh, đập vào miếng gỗ bị đè nặng dưới ba tấc đất. Tôi cào xé cho đến lúc móng tay của mình tứa ra và kêu gào cho tới khi không còn chút hy vọng nào trong cổ họng. Khi còn nằm viện, tôi tin rằng mình đã biết thế nào là sợ hãi khi chờ tới đợt cắt lọc tiếp theo. Nhưng đó chỉ là trò vớ vẩn; tôi chả biết gì cả. Tỉnh dậy trong một cái quan tài và biết rằng mình chỉ còn cách chờ chết? Đó mới là sợ hãi.

Sự chống trả quá khích chẳng thấm vào đâu của tôi đã tỏ ra rất vô dụng, dĩ nhiên. Vì thế tôi ngừng lại. Dù có thể phá được lớp gỗ này ra thì tôi vẫn cứ phải chết thôi, chỉ khác mỗi phương thức: thay vì chết do thiếu ôxy, tôi sẽ bị ngạt thở trong đống đất đang bao kín quan tài. Thiếu không khí còn hơn là bị đất đè cho chết ngạt. Và thế là, yên lặng bao trùm lên cái hộp của tôi như chiếc chăn đắp trên một thây ma. Không có gì để làm ngoài việc chờ đợi, tôi quyết định sẽ làm gì cho ra dáng một chút.

Tiếng thở của tôi vọng lại, như thể cỗ quan tài là một căn phòng tồi tàn nhỏ bé bằng bê tông. Tôi sẽ nghe cho tới khi không còn nghe được nữa, rồi hơi thở yếu ớt cuối cùng của tôi sẽ tan vào bóng tối. Tôi sẽ ra đi thật nhẹ nhàng, tôi hứa với bản thân mình như vậy, bởi vì tôi - sau tai nạn thảm khốc này - đã sống lâu hơn khả năng của mình rất nhiều.

Rồi tôi nhận ra rằng chuyện này ngu ngốc đến thế nào, nghĩ về cái chết khi đang bị ảo giác. Không vấn đề gì. Bình tĩnh tự tin. Tôi đã dạy cho Marianne Engel hồi ở Đức thế nào nhỉ?Mọi bí quyết đều nằm ở cách thở. Hãy giữ chắc vũ khí bằng cách thở chậm lại. Hít vào, thở ra, hít vào, thở ra. Từ tốn. Tôi là vũ khí, tôi tự nhủ; một vũ khí sống, được tôi luyện trong lửa, và không gì có thể cản lại được.

Và rồi. Tôi đã cảm thấy. Một cái gì đó. Và cái gì đó chỉ có thể diễn tả bằng một từ tôi không muốn dùng chút nào: kỳ-bí, một từ ngu ngốc tôi bắt buộc phải đem ra sử dụng vì, rất không may mắn, đó là từ duy nhất chính xác. Tôi cảm thấy một cái gì đó đang hiện hữu. Và nó đang ở ngay bên cạnh tôi. Một người phụ nữ. Tôi không hiểu tại sao mình lại biết đó là một phụ nữ, nhưng sự thật là thế. Không phải là Marianne Engel, vì tiếng thở không giống. Mãi đến lúc ấy tôi mới biết mình có thể nhận ra cô bằng nhịp thở, nhưng tôi đã làm được và đây không phải cô. Tôi đột nhiên nghĩ tiếng thở đó có thể xuất phát từ con rắn. Có lẽ mụ già đã trườn khỏi xương sống của tôi để trực diện đối đầu với tôi. Rốt cuộc thì, chẳng ai có thể cứ nói sau lưng người khác mãi được.

Nhưng không, đây là một cơ thể người đang bình thản nằm cạnh tôi. Thật nực cười, vì quan tài - cái quan tài tưởng tượng - chẳng còn chỗ cho thêm một ai nữa. Tuy nhiên, để chắc chắn, tôi hích nhẹ vào lớp gỗ bên cạnh mình. Hơi thở của cô rất nhịp nhàng, không hiểu sao làm cho tôi cảm thấy rùng rợn.

Một bàn tay chạm vào tôi. Tôi hẩy ngay ra. Tôi ngạc nhiên thấy mình có thể cảm nhận được da thịt cô; tôi đã nghĩ thực thể này là một thứ gì đó phi vật chất. Những ngón tay của cô rất nhỏ nhắn nhưng cô vẫn đủ sức nắm lấy tay tôi.

Tôi cố tỏ ra can đảm trong khi đòi cô nói cho mình biết cô là ai, nhưng giọng tôi đã bị khản đặc. Không có câu trả lời. Chỉ có tiếng thở đều đều của cô. Tôi hỏi lại lần nữa: "Cô là ai?"

Ngón tay cô nắm chặt hơn một chút, đan vào ngón tay tôi. Tôi hỏi một câu khác. "Cô đang làm gì ở đây?"

Vẫn chỉ có tiếng thở nhẹ nhàng, đều đặn của cô. Với những câu hỏi không lời đáp, tôi đã cảm thấy bớt sợ hơn. Cách cô nắm tay tôi không còn đe dọa nữa, mà như đang trấn an tôi, rồi tôi nhanh chóng thấy mình đang bay lên, gần như thế - không, không phải gần như thế, mà chắc chắn là - đang bay lên. Lưng tôi bắt đầu nhấc khỏi đáy quan tài nơi tôi vừa nằm.

Tôi cảm thấy mình là một diễn viên trong trò ảo thuật bay với hai tay được giữ bởi một nhà ảo thuật. Tôi cảm thấy chúng tôi đang xuyên qua nắp quan tài, rồi xuyên qua lớp đất đá. Một quầng sáng màu cam lướt qua mí mắt tôi khi chúng tôi đến gần mặt đất, và tôi thậm chí còn không chắc mình còn thở không nữa.

Đất vỡ ra xung quanh khi tôi nhìn thấy ánh mặt trời, và màu cam đó rừng rực trước mắt. Tôi được nâng lên cao, cách vài phân so với mặt đất. Đất rớt khỏi ngực tôi và tôi có thể cảm thấy nó trượt xuống những dẻ xương sườn, rơi khỏi hông. Tôi đang trôi trong không trung mà không có chỗ nào để bấu víu; người phụ nữ đã không phá huyệt ra cùng tôi. Chỉ có một cánh tay của cô là trồi lên, kết nối tôi với mặt đất như sợi dây gắn với quả bóng bay. Tay cô giữ tôi trong thoáng chốc rồi thả ra và bị kéo lại vào trong mộ. Đó là lúc tôi nhận ra rằng cô không thể rời khỏi đó được: cô không phải là khách đến thăm quan tài của tôi, tôi mới là khách của cô.

Cơ thể tôi nằm trên một đống đất đá. Mắt tôi đã quen dần với ánh sáng. Tôi đang ở trên một ngọn núi và tôi có thể nghe thấy tiếng sông chảy róc rách gần đó. Thật thanh bình, chỉ trong giây lát, cho đến khi mặt đất dưới chân tôi lại bắt đầu rung chuyển. Trong giây phút hoảng loạn, tôi lo rằng người phụ nữ câm lặng đó đã quyết định kéo tôi lại xuống đất, nhưng chuyện xảy ra khác hẳn. Từ tứ phía, đất đá khẽ rung chuyển từng đợt, như những con chuột chũi dùng móng vuốt cào cấu để cố trồi lên mặt đất vậy.

Lúc đầu, chúng chỉ là những tia sáng lóe lên trong nắng. Nhưng rồi hình dạng thật của chúng bắt đầu hiện ra: những bông hoa, với những cánh hoa không màu. Khi nhìn gần hơn, tôi nhận ra rằng chúng được làm từ thủy tinh. Hoa loa kèn. Cả ngàn bông loa kèn thủy tinh nở khắp mọi nơi, với ánh sáng rực rỡ dường như tỏa ra từ chính chúng vậy.

Tôi rướn người bẻ một bông. Ngay khi tôi chạm vào, bông hoa đóng băng lại dưới ngón tay tôi. Biến từ thủy tinh thành băng, cả một nghìn bông hoa - như thể đều được gắn kết với nhau bởi một linh hồn - bắt đầu nổ tung ra thành từng mảnh nhỏ. Mỗi tiếng nổ là một từ được thoát ra, trong giọng thì thầm của một người phụ nữ, và tất cả hợp với nhau thành một bản giao hưởng nghe như tiếng của tình yêu thuần khiết. Aishiteru, aishiteru, aishiteru.

Những bông hoa loa kèn nổ tung rơi xuống núi như những quân cờ domino đổ ập về phía chân trời. Trong niềm hân hoan của câu hát Aishiteru vang vọng khắp bầu trời, ngọn núi rung lên dữ dội rồi sụp đổ, thành những bình nguyên trải ra mọi hướng. Chỉ vài giây sau khi chuyện này xảy ra, khắp xung quanh tôi những bông hoa vụn vỡ đã trở thành một cánh đồng băng trải dài ngút tầm mắt.

Tôi chăm chú nhìn cánh đồng băng hoang dại này và nó cũng tàn nhẫn nhìn thẳng vào tôi. Gió rét buốt như đến từ Nam Cực cứ quật liên hồi vào thân thể đang run bần bật của tôi. Giờ tôi mới nhận ra mình hoàn toàn trần trụi, không có gì trên người ngoài sợi dây chuyền mặt khắc hình thiên thần không bao giờ rời khỏi cổ tôi.

Ngôi mộ đã biến mất - dĩ nhiên, khi giờ đây cả ngọn núi cũng đã biến mất - nhưng có một chiếc áo nhà sư tuềnh toàng đang nằm tại nơi từng là ngôi mộ. Khi tôi nhặt nó lên ướm thử vào người mình, vài hạt đất nhỏ rơi ra rồi bị điệu vũ ba lê mạnh mẽ của gió thổi đi mất. Chiếc áo nhà sư quá nhỏ so với người tôi nhưng vì nó là tất cả những gì tôi hiện có, tôi đã mặc nó vào. Bạn có thể tưởng tượng một người bị bỏng như tôi mặc chiếc áo ni cô bé xíu thì trông lố bịch đến thế nào nhưng khi bạn đang chết rét thì lo lắng về thẩm mỹ chẳng có ích lợi gì đâu.

Chiếc áo giống hệt cái tôi đã thấy người phụ nữ Nhật Bản mặc hôm lễ hội Halloween. Không nghi ngờ gì nữa, cái áo và ngôi mộ này, thuộc về Sei.

Sự trống trải lạnh lẽo của thế giới mới này như nuốt chửng tôi. Địa điểm tồn tại của tôi thay đổi đến chóng mặt: từ cái nơi bé và tối nhất tôi có thể tưởng tượng ra, đến nơi rộng lớn và sáng sủa nhất. Trong hàng dặm quanh đấy, tôi là vật thể cao nhất, trông thật hoành tráng chỉ vì có hai chân để đứng được, thế nhưng tôi vẫn cảm thấy mình thật bé nhỏ giữa bầu trời bao la. Đứng trên một bình nguyên bằng phẳng làm bạn cảm thấy vừa vĩ đại lại vừa nhỏ bé.

Chiếc áo mỏng manh chẳng chống rét được mấy, gió lạnh thấu xương. Tôi nhìn thấy gì đó, tôi đã bắt đầu bị mù tuyết, nhưng vẫn cố nheo mắt để xác định cho rõ vật kia: một sinh vật nặng nề bước đi giữa không gian trống trải ghê hồn. Hình thù đó có vẻ đang đi thẳng về phía tôi, nhưng rất khó nói chắc được giữa một nơi bằng phẳng thế này. Tôi tiến về phía nó. Nó có là gì đi nữa thì cũng không thể tệ hơn việc cứ đứng thế này, đợi đông thành đá được.

Một lúc sau tôi nhận ra cái vật thể đang tiến về phía mình ấy là một người đàn ông. Anh ta hẳn đến cứu tôi, vì nếu không đến cứu tôi thì chắc chỉ để giết tôi mà thôi. Chi tiết đầu tiên tôi nhìn ra là những lọn tóc đỏ và dày của anh ta, nổi bật trên nền tuyết trắng như vết máu đọng trên tấm khăn trải giường. Thứ tôi thấy tiếp theo là anh ta choàng áo lông thú dày cộp và đi đôi ủng cũng dày không kém. Quần anh ta làm bằng da thuộc dày dặn và áo khoác cũng được làm từ da thú. Hình như anh ta mang một chiếc túi da trên vai. Anh ta thở ra khói liên tục. Râu anh ta đọng đầy những hạt tuyết nhỏ li ti. Anh ta ở gần tôi lắm rồi. Khóe mắt anh ta hằn những nếp nhăn và tôi tin anh ta trông già hơn tuổi thật rất nhiều.

Khi đến trước mặt tôi, anh ta giơ cái túi đeo trên vai ra và nói, "Farðu í petta." Tôi hiểu câu đó có nghĩa là gì: Anh mặc những cái này vào.

Tôi mở chiếc túi ra và thấy một bộ quần áo đầy đủ làm bằng da dày phủ lông để bảo vệ tôi. Tôi hối hả mặc quần áo vào, và nhanh chóng cảm thấy người mình ấm lên hẳn. "Hvað heitir pú?" Tên anh là gì? Tôi bất ngờ khi thấy miệng mình cũng phát ra tiếng Iceland.

"Tôi là Sigurðr Sigurðsson, và anh sẽ đi cùng tôi." Câu trả lời đã giúp tôi khẳng định chắc chắn nhân dạng của anh ta mà khi nãy tôi đã đoán ra; nhưng không chắc lắm, bởi vì ở đây - bất kể đây là đâu đi nữa - Sigurðr cũng không bị thiêu cháy dù đó là cách chấm dứt cuộc đời anh. Điều đó làm tôi băn khoăn tại sao thân thể tôi vẫn đầy thương tổn.

"Chúng ta đang đi đâu vậy?" tôi hỏi.

"Tôi không biết."

"Khi nào chúng ta sẽ đến đó?"

"Tôi không biết," anh ta liếc mắt nhìn về phía đường chân trời. "Tôi đã đi được khá lâu, tôi nghĩ chắc cũng gần tới rồi."

Sigurðr đeo một cái vỏ kiếm ở thắt lưng, thứ đã lắc qua lắc lại trên hông Sei khi họ khiêu vũ. Anh ta rút thanh Sigurðrsnautr chuôi chạm hình mãng xà ra, rồi đưa thắt lưng và bao kiếm cho tôi. "Đeo cái này vào, anh sẽ cần đến nó đấy."

Tôi hỏi tại sao. Anh ta trả lời là mình cũng không biết.

Tôi ném áo nhà sư của Sei đi, nghĩ nó đã vô dụng khi giờ đây tôi đã có bộ quần áo bằng da. Sigurðr nhặt nó lên và đưa lại cho tôi. "Dưới Địa ngục, anh sẽ phải dùng đến tất cả mọi thứ mình có."

Tôi buộc chiếc áo lại quanh eo, làm thành chiếc thắt lưng thứ hai cùng với chiếc mà Sigurðr vừa mới tặng cho tôi. Tôi hỏi anh ta tại sao lại biết chúng tôi phải đi theo hướng nào.

"Tôi không biết," anh ta trả lời. Sigurðr là người khá kiệm lời. Anh ta dùng thanh kiếm của mình làm gậy đi đường, mặt băng bị cắt ra dưới mỗi nhát kiếm. Đối với một người không biết mình đang đi về đâu, những bước chân của anh ta thật quyết đoán làm sao.

"Đây có phải chỉ là ảo giác không?" Tôi cảm thấy mình cực kỳ ngớ ngẩn khi đang ở trong một ảo giác mà hỏi xem liệu đó có phải là ảo giác không bằng một ngôn ngữ tôi không hề biết. (Trên thực tế, có bao nhiêu người trên cả thế giới này biết từ "ảo giác" trong tiếng Iceland là ofskynjun?) Sigurðr trả lời rằng anh ta không nghĩ đây lại là một ofskynjun, nhưng cũng không chắc lắm.

Chúng tôi cứ đi. Đi mãi. Hằng ngày trời, nhưng mặt trời không bao giờ lặn. Có lẽ bạn nghĩ đây là một kiểu nói quá, rằng tôi thực sự chỉ muốn nói là hàng giờ, và thời gian ấy dài lê thê như thể bao ngày đã trôi qua mà thôi. Nhưng không, tôi muốn nói là hằng ngày trời. Chúng tôi cứ đi trong trạng thái cực kỳ mệt mỏi nhưng chúng tôi lại không bao giờ cảm thấy cần ngủ, và dù đầu gối tôi chẳng tử tế gì, tôi vẫn cảm thấy mình có thể đi mãi không thôi. Tôi nghĩ về những nơi ở vùng cực Bắc của thế giới, nơi mặt trời mọc liên tục trong suốt sáu tháng liền. Liệu chúng tôi có phải đi xa đến thế không?

Sigurðr vẫn tiếp tục đóng vai người nói ít, và nói tối nghĩa; hầu như trong suốt cuộc hành trình, âm thanh duy nhất phát ra từ người anh ta là tiếng nhạc nhẹ nhàng từ dưới chiếc áo da, quanh vùng cổ. Được một lúc thì tôi dừng nói chuyện với anh ta, trừ việc cố làm anh ta cười. Tôi chưa bao giờ thành công cả. Thỉnh thoảng tôi không đi tiếp chỉ để phá vỡ sự đơn điệu. Tôi nài nỉ Sigurðr chờ chỉ một phút thôi nhưng anh ta luôn nói rằng chẳng có thời gian nghỉ ngơi đâu. Khi tôi hỏi tại sao, anh ta trả lời, "Vì chúng ta cần phải đến đó."

Khi tôi hỏi Sigurðr "đó" là ở đâu, anh ta không biết. Vì thế tôi nói với anh ta rằng, khi anh ta không biết nơi đó là ở đâu, tôi chẳng thấy có lý do gì phải tiếp tục đi theo anh ta cả. Anh ta khịt mũi, nói tôi được phép chọn làm cái việc ngu ngốc ấy, và cứ tiếp tục đi mà không cần có tôi. Ngay trước khi anh ta khuất khỏi tầm nhìn, tôi lại hộc tốc chạy đuổi theo. Vì dĩ nhiên là tôi cần anh ta - một mình tôi thì làm được gì ở cái chỗ này chứ? Và thế là chúng tôi lại nặng nhọc tiến về phía trước, tiến về cái nơi anh ta không thể định nghĩa được còn tôi thì không thể tưởng tượng nổi.

Ảo giác lẽ ra phải đẹp hơn thế này, tôi nghĩ vậy. Đi dọc bình nguyên băng giá trong hằng ngày trời thật là một việc buồn tẻ và tôi phải ngạc nhiên khi thấy mình có thể tưởng tượng ra một thứ vớ vẩn như thế, trong thời gian lâu đến thế. Lạnh cắt da cắt thịt; tuyết cuộn xoáy bay tứ tung; và sự mệt mỏi làm tôi đau đớn đến nỗi nghĩ rằng đây chẳng phải tưởng tượng. Điều duy nhất có vẻ thiếu thực tế ở đây là khả năng đi liên tục mà không cần nghỉ ngơi hay ăn uống gì của tôi.

Dĩ nhiên đây chỉ là ảo giác. Một ảo giác quá thật, quá lạnh lẽo, quá dai dẳng. Việc ngừng dùng thuốc kích thích lẽ ra không gây ra hậu quả thế này. Trừ phi...

"Sigurðr, tôi đã chết chưa?"

Anh ta cuối cùng cũng cười, "Anh chỉ là khách ở đây thôi."

Nếu nơi đây thuộc về Sigurðr, cũng như cỗ quan tài là của Sei, tôi muốn biết nhiều hơn về nó. Về tất cả mọi thứ. Tôi quyết định loại hết tế nhị qua một bên. "Âm thanh phát ra từ cổ anh - có phải là của chiếc vòng cổ đính đá quý từng thuộc về Svanhildr không?"

Anh ta ngừng bước, có lẽ đang quyết định có nên xác nhận hay không. Anh ta chọn có. "Ừ."

"Anh cũng có cả sợi dây gắn đầu mũi tên chứ?"

"Cái đó đã được trao cho Friðleifr rồi."

"Tên cậu ấy đã được đổi thành Sigurðr, anh biết mà."

Anh ta không nói gì một lúc lâu, cho tới khi trả lời với giọng nhẹ nhàng nhất tôi từng được nghe từ miệng anh. "Ừ, tôi biết. Đó là một niềm vinh hạnh lớn."

"Anh có thể kể cho tôi nghe về Einarr chứ?"

Câu hỏi làm anh ta bước tiếp. "Câu chuyện đó không dành cho anh."

"Tôi đã được nghe kể về nó rồi."

Sigurðr quay lại nhìn thẳng vào mắt tôi. "Không. Anh chỉ được nghe phiên bản của Marianne Engel về câu chuyện của tôi thôi. Làm sao anh lại dám nghĩ mình hiểu được trái tim tôi, trong khi anh thậm chí còn không hiểu được trái tim của chính bản thân mình?"

Hãy để một người Viking dạy bạn nghệ thuật nói năng khi bạn ít ngờ đến nhất. Tôi ngậm miệng lại và đi tiếp.

Tôi cứ nghĩ có gì đó ở ngay phía trước, nhưng mãi vẫn chẳng thấy gì, tôi cứ nghĩ là chúng tôi sẽ đi đến một ngọn đồi nhìn xuống một thung lũng, hoặc một thảm rêu mọc trên những mỏm đá granite, nhưng mỗi "đỉnh đồi" chúng tôi gặp đều chỉ là đường chân trời hiện tại được thay thế bằng một đường chân trời mới. Tôi cầu mong sự đơn điệu này được phá vỡ, bởi cái gì cũng được. Một hòn đá tảng. Một vết móng guốc nai sừng tấm Bắc Mỹ. Một con chó kéo xe bị đông cứng. Tên một người được khắc vào băng tuyết với những chữ cái vàng rực trong nắng. Nhưng chúng tôi chỉ gặp thêm nhiều băng, nhiều tuyết. Vào ngày thứ tư (tôi nghĩ đó là ngày thứ tư), tôi dừng lại. Bỏ cuộc.

"Chẳng có gì ở đây cả. Bất cứ cái gì anh nghĩ mình có thể tìm thấy..." Giọng tôi lạc đi. "Sigurðr, anh đã đến 'nơi đó' hơn một nghìn năm rồi, vậy mà anh thậm chí còn chẳng biết đó là nơi nào."

"Anh đi cho tới khi nào đến nơi thì thôi," anh ta nói, "và giờ anh đi được đủ xa rồi."

Nơi này chẳng khác bất cứ chỗ nào trên cái bình nguyên này cả. Tôi xoay đủ mọi hướng, vung hai cánh tay lên để nhấn mạnh điểm này. "Anh nói về cái gì vậy?"

"Nhìn lên trời đi."

Tôi ngước mắt lên. Dù sự thật là chẳng có ai trong hàng dặm xung quanh, vẫn có một mũi tên từ đâu phóng thẳng về phía tôi.

Tôi muốn di chuyển nhưng người cứ đông cứng lại, phản ứng duy nhất của tôi là lấy hai tay che đầu. (Mặc dù, sau khi nghe tất cả những câu chuyện của Marianne Engel, quyết định có vẻ logic hơn phải là lấy tay che ngực mới phải.) Mũi tên hụt khỏi tôi độ vài phân, cắm thẳng xuống đất, và mặt đất nứt toác ra như một con quái vật bạch tạng bị gãy móng vuốt. Hàng tảng băng khổng lồ văng lên rồi nứt vỡ, điên cuồng lao vào

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net