Phần 33 (End)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tất cả mọi người đều nhận xét rằng Sayuri trông cực kỳ xinh đẹp trong bộ váy cưới. Mẹ cô, bà Ayako, đứng ở hàng đầu, nức nở trong niềm hạnh phúc còn cha cô, ngài Toshiaki, cứ giơ tay liên hồi để che cái môi trên đang run lên vì sung sướng của mình. Khi Gregor đeo nhẫn cưới vào ngón tay cô, Sayuri nở nụ cười rực rỡ nhất từ trước đến nay.

Đám cưới được tổ chức vào tháng Tám, trong một khu vườn dưới nền trời xanh trong không gợn bóng mây. May là có gió nhẹ; bộ lễ phục tuxedo của tôi không để cho da tôi được thở thoải mái cho lắm. Những sắp xếp đặc biệt đã được tiến hành để bảo đảm rằng anh phù rể, là tôi đây, sẽ đứng được dưới gốc cây du lớn trong suốt lễ kết hôn; đó là một trong rất nhiều hành động tử tế mà đôi cô dâu chú rể dành cho tôi. Dù chúng tôi đã trở nên vô cùng thân thiết, tôi vẫn rất bất ngờ khi họ mời tôi đến dự, nhưng cả Sayuri lẫn Gregor chẳng thèm bận tâm đến việc có một con quái vật xuất hiện trong ảnh cưới của họ.

Theo đúng lễ nghi, cặp với tôi sẽ là cô phù dâu đứng đối diện, nhưng trên thực tế, người đi cùng tôi lại là Jack Meredith. Bà hầu như không khiến tôi phải xấu hổ, dù đã nốc hàng lít rượu Scotch trong suốt buổi tiếp khách. Rõ ràng chuyện bà đi cùng tôi chẳng có tí lãng mạn nào, nhưng chúng tôi đã dành khá nhiều thời gian ở cùng nhau trong những tháng trước. Ở mức độ nào đó, bà đã nhận ra rằng thực sự có thể chịu nổi tôi. Mối quan hệ giữa tôi với bà gần như là tình bạn, dù nói thật ra tôi vẫn chưa đạt được tới mức ấy.

Tôi đã tặng cho Sayuri và Gregor bức tượng Morgengabe. Họ bối rối nhìn nó, không hiểu bức tượng kỳ lạ này có ý nghĩa gì, và hỏi liệu có phải Marianne Engel đã tạc nó không. Tôi chẳng cố thanh minh, rằng thực ra chính tôi mới là người tạc nó; tôi cũng chẳng cố giải thích, rằng bất chấp tuổi thọ và sự dãi dầu sương gió, nó là món quà đẹp nhất tôi có thể trao cho họ.

Ở buổi tiếp đón, Sayuri không cho phép mình uống một chút rượu sâm banh nào, vì cô bắt đầu có dấu hiệu có bầu rồi. Đã có chút thảo luận nho nhỏ về việc lễ cưới nên diễn ra trước hay sau khi sinh em bé, nhưng Gregor thuộc dạng đàn ông hơi cổ hủ. Ông muốn con mình phải được coi là "đứa con hợp pháp", thế là ông và Sayuri bay tới Nhật, thuê một phiên dịch truyền đạt những dự định tốt đẹp của mình đến cho ngài Toshiaki. Sayuri có thể tự làm việc này nhưng Gregor không muốn cô dịch cho cha mình mong muốn được kết hôn với cô. Khi ngài Toshiaki chấp thuận cho đôi trẻ, bà Ayako đã òa khóc và vừa cúi đầu vừa xin lỗi - mặc dù vì lý do gì thì Gregor cũng chẳng hiểu lắm. Sau khi bà Ayako đã lau khô nước mắt, tất cả mọi người cùng ngồi uống trà trong khu vườn phía sau nhà.

Cha mẹ của Sayuri dường như chẳng hề phiền muộn về chuyện cô phải sống ở nước ngoài và cưới một người ngoại quốc, cũng như chẳng bận tâm chuyện cô đã quá tuổi bánh Giáng sinh tươi ngon từ lâu. (Thực tế là, bà Ayako chỉ ra, vì càng ngày càng có nhiều phụ nữ Nhật Bản lấy chồng muộn, tuổi ế chồng giờ đã không còn là hai lăm nữa. Những phụ nữ độc thân tới tuổi ba mốt giờ đây được gọi là mì đêm Giao thừa rồi.) Chuyện duy nhất cha mẹ Sayuri không vừa lòng ở đám cưới này, một chút xíu thôi, là việc cô đã quyết định lấy họ nhà chồng. Họ thầm than thở với nhau là "Sayuri Hnatiuk" nghe chẳng vần gì cả, và dù đã cố hết sức, họ cũng không thể phát âm chuẩn được.

Vào cuối ngày tôi cũng có cơ hội nói chuyện với bà Mizumoto vài phút, với Sayuri làm phiên dịch, Sayuri đã nói với bà về chuyện Marianne Engel mất vào mùa xuân, và bà Ayako gửi đến tôi lời chia buồn sâu sắc nhất. Khi cám ơn bà vì điều đó, tôi có thể thấy bà khá sốc trước cái giọng gầm gừ của tôi nhưng vì lịch sự bà đã không để tâm. Thay vì thế, bà nở nụ cười thật tươi, và ngay trong giây phút đó, tôi hiểu Sayuri đã học cái phong thái thường ngày của cô ở đâu. Chúng tôi nói chuyện vui vẻ với nhau trong vài phút và tôi đảm bảo với bà Ayako rằng con bà chắc chắn sẽ có một cuộc hôn nhân hạnh phúc mặc dù Gregor, ngay cả khi đã mặc một bộ tuxedo lịch lãm, trông vẫn cực kỳ giống một con sóc chuột. Sayuri húc khuỷu tay mình vào cánh tay tôi vì dám nói thế nhưng hiển nhiên vẫn dịch cho mẹ mình từng từ một. Mẹ cô gật đầu lia lịa, tỏ vẻ rất đồng tình: "So,so,so,so,so,so,so!" Trong suốt lúc ấy bà cứ lấy tay che miệng, như thể cố nén cười.

Khi câu chuyện của chúng tôi sắp đến hồi kết thúc, bà Mizumoto cúi đầu chia buồn lần cuối. Khi ngẩng đầu lên, bà nở một nụ cười đầy hy vọng, đặt tay mình lên bụng của Sayuri, và nói,"Rinne tenshou."

Sayuri khá vất vả khi phải dịch câu này, cô gợi ý câu này có thể hiểu là "Tất cả mọi thứ đều quay trở lại" hoặc "Cuộc sống luôn luôn lặp lại." Sayuri nói thêm đây là kiểu nói quen thuộc của các bà già Nhật Bản khi họ nghĩ mình hiểu tư tưởng đạo Phật hơn thực tế. Tôi có thể đoán, từ cái nhìn khó chịu bà ném cho con gái, rằng bà Ayako hiểu nhiều tiếng Anh hơn những gì bà thể hiện.

Nhưng khi quay lưng đi, hai người họ đã ôm chặt lấy nhau. Bà Ayako có vẻ nhanh chóng tha thứ cho con gái về câu nhận xét về các bà già Nhật Bản, và Sayuri cũng mau mắn tha thứ cho mẹ mình về chuyện cười trước cái hình ảnh sóc chuột của Gregor.

Sau khi Marianne Engel biến mất, các nhà chức trách đã tìm kiếm khắp dọc bờ biển trong suốt ba ngày nhưng chẳng tìm được thi thể nào. Chẳng có gì ngoài những ngọn sóng đơn côi giữa đại dương mênh mông. Vấn đề với biển cả là bạn không thể lục tung nó lên được, và như thể là đại dương đã xóa bỏ hoàn toàn mọi bằng chứng về sự sống của cô nhưng lại không đưa ra một xác nhận nào về việc cô đã ch...t hay chưa.

Marianne Engel không có bảo hiểm nhân thọ, nhưng mọi nghi ngờ kiểu gì cũng đổ dồn về tôi. Chẳng trách được: chưa đầy sáu tháng trước khi biến mất, cô đã thay đổi chúc thư và điền tên tôi vào chỗ người thừa kế chính. Tình huống này không làm các ông cảnh sát hài lòng cho lắm, đặc biệt là việc tôi đã ở cùng cô khi cô biến mất. Họ thẩm vấn tôi liên hồi nhưng cuộc điều tra đã chỉ ra rằng tôi chẳng hề biết đến sự tồn tại của bản di chúc ấy, và đám thanh niên ngồi uống bia trên bờ biển cũng làm chứng rằng việc "gã bỏng" và "cô nàng xăm mình có mái tóc kỳ cục" ra biển vào ban đêm là chuyện thường. Cô ấy thường đi bơi, họ xác nhận thế, dù thời tiết có thế nào chăng nữa. Vào cái đêm bất thường ấy, tôi chẳng làm gì ngoài ngồi trên bãi biển nhìn con chó chạy vòng quanh cả.

Jack cũng nói hộ tôi. Lời của bà có trọng lượng đặc biệt vì bà không những là người bảo hộ cho Marianne Engel mà còn là người đã bị tôi thế chân trong bản di chúc. Bất chấp điều này, Jack vẫn nói tốt về tôi và tuyên bố với cảnh sát rằng bà không nghi ngờ gì về tình yêu giữa tôi và Marianne Engel. Dù đã xác nhận là tôi chẳng biết gì về chuyện thay đổi di chúc, bà cũng nói thêm, "Tôi nghĩ mình sẽ có nhiều thời gian để nói chuyện phải trái cho Marianne loại chuyện đó ra khỏi đầu. Tôi không hề nghĩ cô ấy lại ch...t sớm như vậy."

Jack Meredith có thể nói những từ mà tôi không thể viết ra. Những từ như là ch...t. Những từ như là tự tưưử. Những từ ngữ đó làm tôi trở nên hèn nhát. Viết chúng ra chỉ khiến sự thật thêm rõ ràng.

Công việc giấy tờ pháp lý kéo dài gần hết mùa hè, nhưng thực tế tôi chẳng bận tâm chút nào. Tôi chẳng quan tâm việc cảnh sát quyết định gì về trách nhiệm của tôi trong việc Marianne Engel biến mất và tôi cũng không đoái hoài mấy ông luật sư nói gì về bản di chúc. Cuối cùng, Jack đã phải thuê một luật sư đứng ra hộ tôi, bởi vì nếu không được tư vấn, tôi sẽ lại ký tất cả những giấy tờ bày ra trước mặt mình, y như hồi tôi ở trong bệnh viện khi hay tin công ty sản xuất phim của mình đã phá sản.

Marianne Engel đã để lại gần như tất cả cho tôi, bao gồm ngôi nhà và mọi thứ bên trong. Thậm chí cả Bougatsa. Jack, dù đã dành bao năm tháng giúp Marianne Engel quản lý công việc kinh doanh, chỉ nhận được những bức tượng hiện đang ở sẵn trong phòng triển lãm của bà.

Trong một bộ sưu tập hộp giày cất phía sau một cái tủ quần áo, tôi đã tìm thấy những sổ tài khoản ngân hàng cất hàng trăm nghìn đô la, giờ thuộc về tôi. Marianne Engel hoàn toàn không nợ nần gì hết, có lẽ vì không cơ quan hành chính nào dám mạo hiểm cho cô nợ cả. Tôi cũng phát hiện ra một loạt hóa đơn tiết lộ sự thật về căn phòng riêng trong bệnh viện của tôi. Đó không phải, như Nan đã nói lúc ấy, là một "sự ngẫu nhiên may mắn" khi có một phòng trống và bà đã sử dụng nó để nghiên cứu tỷ lệ hồi phục của những bệnh nhân được ở phòng riêng so với những những bệnh nhân ở phòng chung. Và cũng không phải, như tôi đoán hồi đó, là tôi bị tống vào phòng riêng chủ yếu để Nan có thể tách Marianne Engel ra khỏi những bệnh nhân khác. Sự thật là Marianne Engel đã trả tiền thuê cái phòng trống đó để cô có thể kể chuyện cho tôi nghe mà không bị quấy rầy. Cô chỉ không nói với tôi mà thôi.

Không thứ gì tôi được thừa kế thực sự thuộc về tôi cho tới vài năm nữa, bởi vì người ta chưa tìm được thi thể của cô. Chỉ sau một khoảng thời gian thích hợp thì một "giấy chứng t... giả định" mới được cấp cho Marianne Engel, và cho đến khi đó thì mọi tài sản của cô sẽ được giao cho một người thứ ba trông coi. May mắn thay, tòa quyết định tôi có thể tiếp tục sống tại pháo đài vì nó vốn đã là nơi cư trú chính của tôi khi cô mất tích rồi.

Những tờ báo địa phương, và thậm chí cả vài tờ quốc tế, đã đăng những bài ngắn về sự biến mất của một nữ nghệ nhân tạc tượng có vấn đề thần kinh nhưng lại cực kỳ tài năng. "Được xem là đã ch...t," họ đều nói vậy. Vì chẳng có gì giúp nghệ sĩ nổi danh hơn là một kết cục bi thảm, Jack đã bán được những bức tượng còn lại trong phòng triển lãm với một tốc độ kỷ lục. Dù đã phá luật, tôi vẫn đưa cho Jack hầu hết chỗ tượng còn lại ở pháo đài. (Tôi chỉ giữ lại bức tượng của chính mình, và một vài bức tượng tôi thích.) Luật sư của tôi khuyên tôi không nên làm thế, nhưng các ông cảnh sát có vẻ không hề theo dõi mọi hoạt động của tôi. Những chiếc xe tải vẫn luôn đến và đi, vì thế chẳng có ai trong vùng để ý gì đến việc có thêm một vài bức tượng nữa được chở đi cả. Khi Jack mang séc đến trả, trừ đi phần tiền hoa hồng của mình, tôi ấn chỗ tiền lại vào tay bà.

Bà xứng đáng có nó hơn tôi. Và dù tài khoản ngân hàng đã bị đóng băng, tôi vẫn có đủ tiền để sống.

Marianne Engel, dù rất hay nghĩ lung tung, đã thấy trước khả năng có thể mình sẽ không luôn ở bên để trả các hóa đơn cho tôi. Sau khi cô mất tích, tôi đã tìm thấy một phong bì gửi cho tôi, chứa một chiếc chìa khóa mở một két an toàn cô đã sắp xếp để tôi có thể rút tiền được. Khi tôi mở két, tôi phát hiện ra rằng nó chứa nhiều hơn cả số tiền cần thiết để trang trải cho các nhu cầu của tôi cho tới khi chúc thư có hiệu lực.

Có hai thứ nữa ở trong két.

Rốt cuộc thì cảnh sát cũng đi đến kết luận rằng tôi không liên quan gì đến việc Marianne Engel biến mất. Nhưng họ sai rồi.

Tôi đã giết Marianne Engel. Tôi đã giết cô rõ ràng như cầm một khẩu súng hoặc đổ một lọ thuốc độc vậy.

Khi cô đi về phía biển, tôi đã biết cô không định đi bơi. Tôi đã biết cô sẽ không quay trở lại, và tôi sẽ không giả vờ nữa. Tuy thế, tôi đã không làm gì cả.

Tôi đã không làm gì cả, như cô từng yêu cầu tôi làm thế, để chứng tỏ tình yêu của mình.

Tôi có thể cứu cô chỉ bằng vài lời nói. Nếu tôi bảo cô đừng bước xuống nước, cô sẽ không thực hiện kế hoạch của mình. Tôi biết thế. Cô sẽ phải quay lại với tôi, bởi vì Ba Vị Chủ Nhân của cô đã nói rằng tôi cần phải chấp nhận trái tim của cô nhưng rồi sẽ giải phóng cho nó, để giải thoát cho cô. Mọi nỗ lực ngăn cản cô sẽ cấu thành lời từ chối để giải phóng cô, vì thế tất cả những gì tôi phải nói là "Marianne, quay lại đi."

Tôi đã không làm thế, và giờ đây tôi suy sụp khi nhận ra rằng tôi đã không nói ba từ đơn giản có thể cứu mạng cô. Tôi suy sụp vì biết rằng tôi đã không cố đưa cô tới tòa để bắt cô nhập viện, rằng tôi đã không cố hết sức cho thuốc vào thức ăn của cô, rằng tôi đã không còng cô vào giường mỗi khi việc tạc tượng của cô vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Thực sự có bao nhiêu hành động có thể ngăn cô khỏi ch...t, tôi đã không làm gì cả.

Marianne Engel tin rằng cô đã giết tôi bảy trăm năm về trước, với mục đích nhân đạo, nhưng đó chỉ là câu chuyện cô hư cấu mà thôi. Sự thực là tôi đã giết cô chính trong kiếp này: không phải vì lòng nhân đạo, mà vì không làm gì cả. Trong khi cô tin rằng mình đang tự giải phóng bản thân khỏi ràng buộc trói chặt những trái tim ăn năn hối cải của mình, tôi đã tỉnh táo hơn. Tôi không bị tâm thần phân liệt. Thế mà tôi vẫn giữ im lặng. Vô dụng. Sát nhân.

Tôi đối mặt với sự thật này vài phút mỗi ngày, nhưng đó là tất cả những gì tôi có thể chịu được. Thỉnh thoảng tôi còn định viết ra giấy trước khi cảm xúc trôi tuột đi, nhưng bàn tay tôi cứ luôn run lên bần bật trước khi tôi có thể để những con chữ thoát ra. Chẳng mấy chốc tôi lại tiếp tục tự lừa dối, cố gắng thuyết phục bản thân rằng quá khứ của Marianne Engel có thật chỉ bởi vì cô đã quá tin vào nó. Quá khứ của tất cả mọi người, tôi cố lý lẽ, chẳng là gì ngoài bộ sưu tập những ký ức người đó chọn để nhớ. Nhưng tận sâu trong tim mình, tôi biết đó chỉ là một cơ chế tự vệ tôi tạo ra để tôi có thể tiếp tục sống.

Tất cả những gì tôi phải nói là, "Marianne, quay lại đi."

Từ paleography bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, palais (cổ) và graphia (bản thảo), thế nên chẳng có gì ngạc nhiên khi các nhà nghiên cứu chữ cổ lại đi nghiên cứu văn bản. Họ phân loại sổ sách bằng việc kiểm tra nét chữ (kích cỡ, độ nghiêng cách đưa bút) và cả chất liệu viết nữa (giấy cói hoặc giấy da, giấy cuộn hoặc giấy khâu, các loại mực.) Những nhà nghiên cứu chữ cổ giỏi có thể xác định được số người làm việc trên một bản thảo, có thể đoán định được kỹ thuật của họ, và thậm chí còn có thể xác định bản thảo đó được làm tại vùng nào. Đối với những văn bản tôn giáo, họ không những chỉ ra được một tu viện cụ thể nào đó mà thỉnh thoảng còn có thể chỉ ra đích danh người viết nữa.

Tôi đã nhanh chóng tìm được hai trong số những nhà nghiên cứu chữ cổ giỏi nhất thế giới: một là chuyên gia về các tài liệu thời Trung cổ của Đức và một là chuyên gia về các tài liệu thời Trung cổ của Ý. Tôi thuê họ kiểm tra những thứ tôi đã tìm được, cùng với chỗ tiền, ở trong két an toàn.

Hai bản Địa ngục đều được viết tay nhưng bởi hai người khác nhau: bản đầu tiên bằng tiếng Ý và bản thứ hai bằng tiếng Đức. Cả hai, trước con mắt không chuyên của tôi, đều có hàng trăm năm tuổi.

Trước khi nói cho hai nhà nghiên cứu chữ cổ là tôi muốn kiểm tra cái gì, tôi đã bắt họ ký giấy cam kết tuyệt đối không được tiết lộ bất cứ điều gì. Cả hai người đều thấy đề nghị của tôi rất bất bình thường, thậm chí còn nực cười, nhưng đều đồng ý. Tò mò nghề nghiệp, ta có thể đoán vậy. Nhưng khi tôi đưa hai cuốn sách ra, cả hai người đều nhận ra ngay lập tức rằng họ đã được trao một thứ cực kỳ đặc biệt. Người Ý buột một câu chửi thề, còn góc miệng người Đức thì méo xệch đi. Tôi thì tỏ vẻ hoàn toàn mù tịt trước nguồn gốc của hai cuốn sách, chẳng nói gì về việc có được chúng từ đâu cả.

Bởi vì Địa ngục đã tạo được tiếng vang ngay lập tức với độc giả, nó là một trong những tác phẩm còn lưu lại được nhiều bản nhất từ thế kỷ mười bốn. Nhà nghiên cứu chữ cổ người Ý không mấy nghi ngờ phiên bản của tôi là một trong những bản ra đời sớm nhất, có lẽ được làm trong thập kỷ cuốn sách được xuất bản lần đầu tiên. Ông ta nài nỉ tôi cho phép mình công bố phát hiện đó với những chuyên gia khác, nhưng tôi từ chối thẳng thừng.

Chuyên gia Đức không nhanh chóng xác định tuổi của bản dịch, một phần là vì những kiểm tra ban đầu của ông ta cho những kết quả trái ngược nhau đến khó tin. Đầu tiên, ông ta đã băn khoăn là tại sao một bản thảo được bảo quản tốt thế này lại không được ai biết tới trong một thời gian lâu như vậy. Thứ hai, có vẻ như một người đã dịch toàn bộ tác phẩm ấy, một điều rất bất bình thường với một tác phẩm dài như vậy. Thứ ba, ai đã tạo nên tác phẩm ấy phải là người cực kỳ tài năng. Bản thảo được viết bởi một nét chữ rất đẹp, mà bản thân bản dịch cũng tuyệt vời hơn hầu hết, nếu không nói là tất cả, những phiên bản hiện đại. Nhưng điểm thứ tư mới thật là đánh đố người ta: những thứ có liên quan đến bản thảo - giấy da, mực, nét chữ - đều dẫn đến kết luận là nó được viết tại vùng sông Rhine của Đức, có lẽ sớm nhất là khoảng nửa đầu thế kỷ mười bốn. Nếu điều này là thật - dù rằng rất khó có thể như thế - thì bản thảo của tôi đã tồn tại trước mọi bản dịch Địa ngục bằng tiếng Đức từng được biết tới hàng thế kỷ. "Vậy anh thấy đấy, tôi hẳn là đã nhầm lẫn đâu đó." Ông ta run lên. "Hẳn là thế! Trừ phi... trừ phi..."

Ngài chuyên gia Đức yêu cầu được chiếu xạ lên cả giấy da lẫn mực viết. Khi tôi đồng ý, khuôn mặt ông ta lộ vẻ sung sướng tột đỉnh đến nỗi tôi tưởng ông ta sắp ngất đến nơi."Danke, danke schon, ich danke Ihnen vielmals!"

Khi quá trình kiểm tra đã hoàn tất và các trang giấy được xác định niên đại là vào năm 1335, trên dưới hai mươi năm, tâm trạng của ông người Đức còn phấn khích hơn. "Đây là một khám phá vĩ đại hơn tất cả những gì tôi đã... tôi đã..." Ông ta thậm chí chẳng thể nói hết câu vì ngất ngây sung sướng; bản dịch ra đời trong khoảng vài chục năm sau bản gốc tiếng Ý. Tôi quyết định nghiên cứu thêm chút nữa cũng chẳng hại gì, và tôi thậm chí còn cho ông người Đức manh mối tìm kiếm tiếp: tôi gợi ý là ông ta có lẽ sẽ muốn tập trung điều tra về phòng viết tại Engelthal. Mồm ông người Đức lại méo xệch ra, và ông ta tiếp tục quay lại làm việc.

Khi liên lạc lại với tôi vài tuần sau đó, ông ta dường như đã chịu chấp nhận thực tế là mình đang nghiên cứu một vấn đề không thể hoàn thành được. Phải, ông ta xác nhận, tác phẩm có rất nhiều dấu hiệu cho thấy nó đã được viết tại Engelthal. Và phải, bản thảo có rất nhiều minh chứng cho thấy nó được thực hiện bởi một người chép sách đặc biệt đã có những đóng góp rõ ràng vào những năm khoảng từ 1310 cho tới 1325. Thực tế, người chép sách này luôn là một bí ẩn với những học giả nghiên cứu tôn giáo và những hiện tượng kỳ bí người Đức: dấu vân tay của cô ấy có mặt trên hàng loạt tài liệu quan trọng. Tài năng của cô ấy vượt xa tất cả những người cùng thời, vậy mà tên cô ấy thì chẳng thấy ở đâu cả. Một bí mật như thế chỉ có thể được giữ kín nếu có sự hợp sức của cả nữ tu viện trưởng lẫn nữ trưởng phòng viết tại thời điểm đó, nhưng vì Engelthal cũng là một tu viện nổi tiếng văn chương, câu hỏi lớn ở đây là: người nữ tu này có gì đặc biệt mà lại bị che phủ bởi một màn sương bí mật đến thế?

Ria mép của ông người Đức dường như đang nhảy múa khi ông ta nói tất cả những chuyện này nhưng ông ta cũng thừa nhận là có một số điểm mâu thuẫn với giả thiết Engelthal. Chất lượng những tờ giấy da này khác với giấy của những văn bản khác trong tu viện, và mực cũng có vẻ có những thành phần hóa học khác. Thế nên dù người viết có lẽ xuất thân từ Engelthal, ông người Đức giải thích, chất liệu vật chất thì lại không thế. Và - liệu ông ta có cần phải nói thêm điều này không? - Engelthal hầu như không thể liên quan tới tuyệt tác thơ văn của Dante. "Nó không phải là thứ mà người ở đó hay làm, nếu anh hiểu tôi muốn nói gì. Không chỉ vì nó được viết bằng tiếng Ý, mà còn vì thời bấy giờ nó còn là một thứ cực kỳ báng thánh bổ thần nữa."

Ông người Đức hỏi, có vẻ khá ngây ngô, rằng liệu tôi có chút "gợi ý" nào cho ông ta nữa không? Hóa ra là có. Tôi gợi ý rằng ông từ giờ nên chuyển hướng chú ý của mình từ Engelthal sang thành phố Mainz, đặc biệt chú ý tới những cuốn sách được xuất bản tư nhân từ khoảng giữa những năm 1320. Người viết ấy, tôi nói, có lẽ đã viết sách dưới cái tên là Marianne Engel. Cặp lông mày rậm rì của ông người Đức nhíu lại dưới sức nặng của nguồn thông tin mới này và ông ta nài nỉ được biết tại sao tôi có thể đưa ra những lời chỉ dẫn cụ thể đến thế. Tôi nói rằng đấy chỉ là linh cảm thôi.

Ông ta dành gần hết tháng để tìm những bản thảo nằm trong phạm vi tôi đã đề ra. Ông ta thường xuyên gọi điện, thỉnh thoảng là để cập nhật tiến độ nhưng thường là để phàn nàn về việc hợp đồng tuyệt mật đã làm chậm mọi việc. "Anh có biết là kiếm những tài liệu đó khó thế nào khi tôi không thể nói được là tôi kiếm chúng để làm gì không? Anh nghĩ

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net