Đề 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đề 1: Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên
hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng
liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình
ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập
của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. ở trong thơ Quang Dũng cũng đã
dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong
cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là
bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống
trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian

"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc - Quân xanh màu lá dữ oai hùm - Mắt
trừng gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hnội dáng kiều thơm - Rải rác biên
cương mồ viễn xứ - Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh - áo bào thay
chiếu anh về đất - Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
THÂN BÀI
"Tây Tiến" của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những
đồng đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng
cũng có người đã hy sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương,
nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay
miền viễn xứ. Chính vì thế QDũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh của
đoàn binh Tây Tiến trên những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh mà
"đời vẫn cứ tươi" như ở 14 dòng thơ đầu tiên. Và QDũng cũng không chỉ
khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình cảm hết sức
phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. QDũng đã đặc biệt
quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm
của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt
những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn
tượng mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh
những người con anh hùng của đất nước, của dtộc. Đó là bức tượng đài
sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng
ta đã thấy trong các câu thơ
"Tây Tiến đoàn quân ..... khúc độc hành"
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những
đường nét nhằm tô đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn
thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu:
" Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi "
hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại
thắm tình cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh
như lá rừng. Cảm hứng chân thực của QDũng đã không né tránh việc mô tả
cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng
làm tóc họ không thể mọc được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để
đánh giáp lá cà cho dễ như nhiều người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng
mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá nguỵ trang), vẻ
ngoài dường như rất tiều tuỵ. Nhưng thế giới tinh thần của người lính
lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa
đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo.
Cái giỏi của QDũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tuỵ
nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" với những thanh trắc rơi vào trọng âm
đầu của câu thơ như "tiến", "mọc tóc". Nhờ những thanh trắc ấy mà âm
hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. 2
chữ "đoàn binh" âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang,
hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ không chỉ còn
là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một đoàn binh dù đầu
không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Thủ pháp tương
phản mà QDũng sử dụng ở câu thơ "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" không chỉ
làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu
sắc văn hoá của dân tộc. ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng những
người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn "động vật hoá"
người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng
một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi
người anh hùng vệ quốc trong câu thơ
"Hoành sóc giang san cáp kỷ thu - Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu"
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết
"Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu - Thể diện sài long xâm lược quân"
Có thể nói QDũng đã sử dụng một môtíp mang đậm màu sắc phương Đông để
câu thơ mang âm vang của lsử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền
với sức mạnh truyền thống của dtộc. Đọc câu thơ: "Quân xanh màu lá dữ
oai hùm" ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông á.

Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi QDũng bổ
sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tquốc, hướng về Thủ
đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào
cũng hướng về HNội. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
"Từ thuở mang gươm đi mở nước - Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long"
Người lính Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" mà niềm
thương nỗi nhớ vẫn hướng về một "dáng kiều thơm". Đã một thời, với cái
nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy
của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính
trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. QuDũng đã
tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên
cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đsống tâm hồn
phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo
tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ,
thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều
thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh
sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều
như nổi bật và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng
của thơ QDũng.
Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một
đoàn binh với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một
thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính
Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của
họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc
lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về cái chết của người lính mà
thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến
phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi. Nhưng
nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu
QDũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm
hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn
có sức bay bổng.
Có thể thấy câu thơ: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra
rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ
của người lính Tây Tiến ở nơi "viễn xứ". Từng chữ từng chữ dường như
mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải
thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ "rải rác" dễ gợi sự
hoang lạnh, lại là "rải rác" nơi "viễn xứ", những nấm mồ ấy càng gợi sự
cô đơn côi cút. QDũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa - Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Trong Chinh phụ ngâm:
"Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi - Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi - Chinh phu tử sĩ mấy người - Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn"
Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác
nơi biên cương đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân,
của đất nước. Bởi đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Đồng thời cũng chính câu thơ thứ 2 đã làm cho những nấm mồ rải rác kia
được nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với
người lính đã vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của
mình. Trong thơ QDũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như
vậy.
Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ
"áo bào thay chiếu anh về đất"
Bao nhiêu thương yêu của QDũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội
của mình. Ai bảo QDũng không xót thương những người đồng đội của mình
ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó
khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết
vì chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa
người chết không có cả một chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong "Viếng bạn"
cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế
"ở đây không manh ván - Chôn anh bằng tấm chăn - Của đồng bào Cứa Ngàn - Tặng tôi ngày sơ tán"
Chỉ có điều câu thơ của QDũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên
thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên
trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có,
chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải
thấy QDũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc
áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất
nước, với núi sông. Cụm từ "anh về đất" nói về cái chết nhưng lại bất tử
hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ.
Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca
"Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

KẾT BÀI
Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng
mạn, QDũng đã dựng lên bức chân dung , một bức tượng đài người lính
cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức
mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm
cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng
đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là
bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của QDũng đối với những
người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã
vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những
người con anh hùng ấy


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net

#thơ-ca