54-75 chong Mi

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương IV

Đảng Lãnh Đạo Cách Mạng xã hội chủ nghĩa

ở miềN Bắc Và kháng chiến chống Mỹ,cứu

Nước(1954-1975)

I. Đường lối cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới

1. Đặc điểm nước ta sau tháng 7 - 1954

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ do Đảng lãnh

đạo đã giành được thắng lợi, song sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả

nước vẫn chưa hoàn thành. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, song miền Nam vẫn

còn dưới ách thống trị của thực dân và tay sai. Đất nước tạm thời bị chia làm hai miền.

ở miền Bắc, mặc dù thực dân Pháp rất ngoan cố, nhưng do tinh thần đấu tranh

kiên quyết của nhân dân ta, nên đến ngày 10-10-1954 tên lính Pháp cuối cùng đã rút

khỏi Hà Nội và ngày 16-5-1955, toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp đã phải rút khỏi

miền Bắc. Ngay sau khi hòa bình lập lại, nhân dân miền Bắc khẩn trương khôi phục

kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và tiến hành thực hiện các nhiệm vụ còn lại của

cách mạng dân tộc dân chủ nhằm tạo tiền đề đưa miền Bắc từng bước quá độ lên chủ

nghĩa xã hội.

ở miền Nam, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã

nhảy vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ

quân sự của Mỹ.

Để thực hiện âm mưu nói trên, trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, ngày 7-

7-1954, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về Sài Gòn làm Thủ tướng Chính phủ bù nhìn thay

Bửu Lộc. Ngày 17-7-1955, theo chỉ đạo của Mỹ, Diệm tuyên bố không hiệp thương

tổng tuyển cử thống nhất đất nước và ngày 23-10-1955 đã tổ chức cái gọi là "trưng cầu

dân ý" để phế truất Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống.

Sau khi dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, Mỹ - Diệm đã liên tiếp mở các

cuộc hành quân càn quét để bình định miền Nam, áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, chia

cắt lâu dài đất nước ta. Thực chất, đây là một cuộc chiến tranh đơn phương đẫm máu

chống lại nhân dân miền Nam trong tay không có vũ khí. Với chính sách "tố cộng",

"diệt cộng", loại cộng sản ra ngoài vòng pháp luật để trừng trị, và với khẩu hiệu "thà

giết nhầm hơn bỏ sót", chúng thẳng tay đàn áp tất cả các lực lượng chống đối. Chỉ tính

đến cuối năm 1955, hàng chục vạn cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng đã bị

bắt và bị giết hại.

Đứng trước những biến đổi phức tạp nêu trên, lịch sử lại đặt cho Đảng ta một yêu

cầu bức thiết là phải vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng Việt Nam

99

tiến lên phù hợp với tình hình mới của đất nước và phù hợp với xu thế phát triển chung

của thời đại.

Xuất phát từ việc nhận thức sâu sắc tình hình thế giới và đặc điểm cơ bản của tình

hình đất nước sau tháng 7-1954, trải nhiều hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương và

Bộ Chính trị, chủ trương chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới của Đảng

đã từng bước hình thành.

2. Chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục

thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960)

a) Chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Sau khi hòa bình được lập lại, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Tuy nhiên,

miền Bắc bước vào khôi phục kinh tế trong điều kiện có nhiều khó khăn. 143.000 ha

ruộng đất bị bỏ hoang, hàng trăm ngàn gia đình không có nhà ở, hàng chục vạn người

không có việc làm, nhiều tệ nạn do xã hội cũ để lại còn hoành hành, phần lớn xí nghiệp

ngừng hoạt động, hàng hoá khan hiếm. Nhiệm vụ trước mắt là tiếp quản những vùng

giải phóng theo quy định của Hiệp định Giơnevơ. Việc tiếp quản đó bước đầu thuận lợi,

nhân dân ta đã làm chủ hoàn toàn Thủ đô từ ngày 10-10-1954. Hướng đấu tranh chủ yếu

của nhân dân miền Bắc thời kỳ này là chống âm mưu của địch dụ dỗ, cưỡng ép đồng

bào ta di cư vào Nam. Trong hoạt động này, do chậm phát hiện và chưa thấy hết âm mưu

thâm độc của Mỹ - Pháp, nên gần một triệu người miền Bắc đã bị cưỡng ép di cư vào

Nam.

Xuất phát từ tình hình trên, Đảng chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa

xã hội và đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng từng bước được hình thành

và phát triển.

Tháng 9-1954, Bộ Chính trị đã đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của miền Bắc là

hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, trước hết là phục hồi và phát

triển sản xuất nông nghiệp, ổn định xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tăng cường và

mở rộng hoạt động quan hệ quốc tế... để sớm đưa miền Bắc trở lại bình thường sau chín

năm chiến tranh.

Hội nghị lần thứ bảy tháng 3-1955 và lần thứ tám tháng 8-1955 Ban Chấp hành

Trung ương Đảng (khóa II) đã nhận định: Mỹ và tay sai đã hất cẳng Pháp ở miền Nam,

công khai lập nhà nước riêng chống phá Hiệp định Giơnevơ, đàn áp phong trào cách

mạng. Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn

thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ

vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.

Để củng cố miền Bắc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ, trước hết cần

hoàn thành cải cách ruộng đất, chia ruộng đất cho nông dân, xóa bỏ chế độ sở hữu

ruộng đất của giai cấp địa chủ; đưa miền Bắc tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội;

kiện toàn lãnh đạo các cấp và củng cố Mặt trận Dân tộc thống nhất.

100

Hội nghị đề ra kế hoạch 3 năm (1955-1957) với những mục tiêu cụ thể:

- Khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, trên cơ sở đó phát triển sản

xuất, nhằm giảm bớt khó khăn cho nhân dân. Phấn đấu phục hồi mức sản xuất năm

1939 - năm có mức sản xuất cao nhất ở Việt Nam thời Pháp thuộc.

- Chủ trương khôi phục nông nghiệp là trọng tâm. Ban hành nhiều chính sách

khuyến nông.

- Đề ra chính sách khôi phục tiểu thủ công nghiệp và công thương nghiệp. Ban

hành nhiều chính sách bảo hộ cho các xí nghiệp công, tư thương nghiệp được phát triển

sản xuất để phục vụ dân sinh; không vội vàng thủ tiêu những công thương nghiệp tư

nhân, nếu thấy có lợi cho nền kinh tế. Coi trọng thành phần kinh tế quốc doanh, tạo điều

kiện cho thành phần này dần dần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.

Tháng 12-1957, Hội nghị lần thứ mười ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã

đánh giá thắng lợi về khôi phục kinh tế và đề ra nhiệm vụ soạn thảo đường lối cách

mạng trong giai đoạn mới. Đến tháng 11-1958, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp

Hội nghị lần thứ mười bốn đề ra kế hoạch ba năm phát triển kinh tế - văn hóa và cải tạo

xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh (1958-1960).

Hội nghị xác định cải tạo kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và buôn bán

nhỏ, tư bản tư doanh, chuyển sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất thành sở hữu tập thể xã

hội chủ nghĩa dưới hai hình thức toàn dân và tập thể. Lấy cải tạo làm trọng tâm nhằm

phát triển kinh tế, văn hóa, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố chế độ dân chủ nhân

dân. Xây dựng, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống

nhất nước nhà.

Tháng 4-1959, Hội nghị lần thứ mười sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa

II) thông qua hai nghị quyết quan trọng: Nghị quyết về vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp

và Nghị quyết về vấn đề cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.

Về hợp tác hóa nông nghiệp, Hội nghị xác định hình thức và bước đi của hợp tác

xã là: hợp tác hóa đi trước cơ giới hóa, do vậy hợp tác hóa phải đi đôi với thủy lợi hóa

và tổ chức lại lao động, để phát huy tính ưu việt và sức mạnh của tập thể. Hội nghị chỉ

rõ ba nguyên tắc cần được quán triệt trong suốt quá trình xây dựng hợp tác xã là: tự

nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ.

Về cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, Hội nghị chủ trương cải tạo hòa

bình đối với giai cấp tư sản. Về chính trị, vẫn coi giai cấp tư sản là thành viên của Mặt

trận Tổ quốc, về kinh tế không tịch thu tư liệu sản xuất của họ, mà dùng chính sách

chuộc lại, thông qua hình thức công tư hợp doanh, sắp xếp công việc cho người tư sản

trong xí nghiệp, dần dần cải tạo họ thành người lao động.

Chủ trương đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội đã tạo nên những chuyển biến

cách mạng trong nền kinh tế và xã hội ở miền Bắc nước ta. Miền Bắc được củng cố,

từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương ổn định, vững mạnh đáp ứng

yêu cầu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

101

b) Chủ trương tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

ở miền Nam

Nắm vững âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ ở Việt Nam và Đông Dương, nên

ngay trước ngày ký Hiệp định Giơnevơ, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung

ương Đảng (khóa II) từ ngày 15 đến ngày 17-7-1954, đã chỉ rõ: "Hiện nay đế quốc Mỹ

là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của

nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ"1.

Ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào và cán bộ chiến

sĩ cả nước: "Trung Nam Bắc đều là bờ cõi của ta, nước ta nhất định sẽ thống nhất, đồng

bào cả nước nhất định được giải phóng"2.

Về cách mạng miền Nam, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9-1954 nêu rõ: Đế

quốc Mỹ và tay sai đang mưu tính, phá hoại Hiệp định Giơnevơ nhằm chia cắt lâu dài

Việt Nam. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam phải chuyển từ đấu tranh vũ trang

sang đấu tranh chính trị. Nhiệm vụ của Đảng ở miền Nam trong giai đoạn mới là: "lãnh

đạo nhân dân miền Nam đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến, củng cố hòa bình,

thực hiện tự do dân chủ,... cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập.

Đồng thời phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống những hành động khủng bố, đàn

áp, phá cơ sở của ta, bắt bớ cán bộ ta và quần chúng cách mạng, chống những hành

động tiến công của địch, ngụy, giữ lấy quyền lợi quần chúng đã giành được trong thời kỳ

kháng chiến, nhất là ở những vùng căn cứ địa và vùng du kích cũ của ta"3.

Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị về tình hình và công tác của các đảng bộ miền

Nam, tháng 10-1954, Xứ ủy Nam Bộ được thành lập, do Lê Duẩn, ủy viên Bộ Chính trị

làm Bí thư.

Từ thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam, tháng 8-1956, Lê

Duẩn đã dự thảo Đường lối cách mạng miền Nam. Bản Đường lối cách mạng miền Nam

được đưa ra thảo luận tại Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ họp tháng 12-1956.

Bản Đường lối vạch rõ ngày 20-7-1956 đã không có tổng tuyển cử như Hiệp định

Giơnevơ quy định. Chế độ thống trị của Mỹ, Diệm ở miền Nam lúc bấy giờ là một chế

độ độc tài, phátxít, hiếu chiến. Để chống Mỹ-Diệm, nhân dân miền Nam chỉ có con

đường cứu nước và tự cứu mình là con đường cách mạng. Ngoài con đường cách mạng

không có một con đường khác1.

Mục đích của cách mạng miền Nam là phải đánh đổ chính quyền độc tài phátxít

Mỹ - Diệm, thực hiện một chính quyền liên hiệp dân chủ có tính chất dân tộc, độc lập,

để giải phóng nhân dân miền Nam ra khỏi ách đế quốc phong kiến độc tài phátxít Mỹ -

Diệm để cùng với toàn quốc thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập dân tộc2.

Đường lối cách mạng miền Nam là một trong những văn kiện quan trọng, góp

1, 2. Sđd, tr. 319, 322.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.15, tr. 308.

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.17, tr. 785, 787.

102

phần vào sự hình thành đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam của Đảng.

Tháng 12-1957, tại Hội nghị lần thứ mười ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng,

Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, nước ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách

mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm

vụ cách mạng nói trên đều quan trọng, coi nhẹ một nhiệm vụ nào cũng đều sai lầm.

Tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười lăm.

Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ:

Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị

của đế quốc và phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam; Con

đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành

chính quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào

lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp đấu tranh chính trị và vũ trang

để đánh đổ chính quyền thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành

lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam.

Ban Chấp hành Trung ương cũng nêu rõ, đế quốc Mỹ là đế quốc hiếu chiến cho

nên cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu

tranh vũ trang lâu dài và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta.

Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương cũng nêu rõ cần tăng cường công tác

Mặt trận để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân; củng cố, xây dựng Đảng bộ miền Nam

thật vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để đủ sức lãnh đạo trực tiếp cách

mạng miền Nam.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ mười lăm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II)

có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã đáp ứng đúng nhu cầu của lịch sử, mở đường

cho cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh cách mạng độc lập tự

chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.

II. Thực hiện các kế hoạch nhà nước ở miền Bắc và

đấu tranh chống Mỹ và tay sai ở miền Nam (1954-

1965)

1. Thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước

Ngay sau khi hòa bình được lập lại, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc khôi

phục kinh tế và hoàn thành cải cách ruộng đất. Ngay từ những ngày đầu được giải

phóng, cùng với quá trình khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định đời

sống nhân dân, nhiệm vụ cấp bách của miền Bắc là tiếp quản những vùng địch tạm chiếm

theo quy định của Hiệp định Giơnevơ. Việc tiếp quản diễn ra hết sức khó khăn, phức

tạp bởi Pháp và tay sai đã dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để chống phá, làm rối loạn xã

hội và mất trật tự an ninh trước khi chúng rút quân.

105

ở nhiều địa phương, Pháp và tay sai đã tung tin bịa đặt để gây hoang mang, kích

động dân chúng, thúc ép đồng bào theo đạo Thiên Chúa rời bỏ nhà cửa, ruộng vườn di

cư vào Nam. Có nơi chúng đã cung cấp tiền của, phương tiện cho bọn phản động gây

rối trật tự trị an như ở Bùi Chu (Nam Định), Phát Diệm (Ninh Bình), gây bạo loạn ở Ba

Làng (Thanh Hóa), Quỳnh Lưu (Nghệ An). Đây là cuộc đấu tranh chính trị sâu sắc,

nhưng lãnh đạo Đảng và chính quyền nhiều địa phương chưa thấy hết được tính chất

phức tạp và cấp bách của nó, do đó đã không có những chủ trương, biện pháp đối phó

kịp thời, thậm chí có nơi đã không dám trấn áp bọn phản động cầm đầu, sợ vi phạm

Hiệp định Giơnevơ. Đảng ta đã phê phán những sai lầm đó và thành lập các ban chỉ đạo

chống cưỡng ép dân di cư. Đồng thời, để ổn định tình hình, nhiều chính sách của Đảng

và Nhà nước được ban hành kịp thời trong thời gian này như: chính sách đối với tôn

giáo; chính sách đối với công chức, trí thức trước đây làm việc cho địch; chính sách đối

với ngụy quân. Ngoài ra, Đảng và Nhà nước còn huy động hàng vạn cán bộ, bộ đội đến

giúp đỡ các địa phương, tuyên truyền, vận động quần chúng đấu tranh chống địch

cưỡng ép di cư nhằm ổn định tình hình.

Sau chiến tranh, nền kinh tế miền Bắc gặp nhiều khó khăn gay gắt, việc khôi phục

kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh đã được khẩn trương thực hiện. Cụ thể là:

Trong khôi phục kinh tế, Đảng đặt trọng tâm là sản xuất nông nghiệp. Việc khôi

phục sản xuất nông nghiệp được kết hợp với cải cách ruộng đất và vận động đổi công,

giúp nhau sản xuất, đồng thời, chăm lo xây dựng cơ sở vật chất cho nông nghiệp.

Sản xuất nông nghiệp được khôi phục và phát triển, nạn đói bị đẩy lùi, tạo điều

kiện giải quyết những vấn đề cơ bản trong nền kinh tế quốc dân, kết quả này góp phần

ổn định chính trị, trật tự an ninh xã hội.

Cùng với khôi phục sản xuất nông nghiệp, việc khôi phục công nghiệp, tiểu thủ

công nghiệp và giao thông vận tải cũng hoàn thành. Hầu hết các xí nghiệp quan trọng đã

được phục hồi sản xuất và tăng thêm thiết bị, một số nhà máy mới được xây dựng.

Trong quá trình khôi phục kinh tế, Đảng hết sức coi trọng thành phần kinh tế quốc

doanh, tạo điều kiện cho thành phần này dần dần giữ được vai trò chủ đạo trong nền

kinh tế quốc dân. Giao thông vận tải nhanh chóng được phục hồi, mọi hoạt động kinh tế ở

miền Bắc đã ổn định. Các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế được phát triển nhanh.

Hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở được xây dựng và củng cố, đã phát

huy được hiệu lực trong việc hoàn thành nhiệm vụ khôi phục kinh tế và trong việc đập

tan mọi âm mưu và thủ đoạn của bọn phản động chống đối chế độ mới.

Công cuộc giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất được tiếp tục đẩy mạnh. Để

đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cải cách ruộng đất, Đảng chủ trương dựa hẳn vào

bần cố nông, đoàn kết với trung nông, đánh đổ giai cấp địa chủ, tịch thu ruộng đất của họ

để chia đều cho dân cày nghèo.

Đến tháng 7-1956, cải cách ruộng đất đã căn bản hoàn thành ở đồng bằng, trung

du và 280 xã ở miền núi. Chế độ chiếm hữu ruộng đất phong kiến ở miền Bắc nước ta

đến đây bị xóa bỏ hoàn toàn. 9 triệu người trong hơn 2 triệu hộ dân lao động được chia

hơn 810.000 ha ruộng đất.

Trong quá trình cải cách ruộng đất, bên cạnh những kết quả đạt được, Đảng ta đã

106

phạm phải một số sai lầm nghiêm trọng, phổ biến và kéo dài trong chỉ đạo thực hiện.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sai lầm là chủ quan, giáo điều, không xuất phát từ tình

hình thực tiễn, nhất là những thay đổi quan trọng về quan hệ giai cấp, xã hội ở nông

thôn miền Bắc sau ngày được hoàn toàn giải phóng. Do đó, trong chỉ đạo, thực hiện cải

cách ruộng đất, đã cường điệu hóa đấu tranh giai cấp ở nông thôn, dẫn đến mở rộng quá

mức đối tượng đấu tranh; sử dụng hình thức, phương pháp không phù hợp với đối tượng

là địa chủ ở nông thôn Việt Nam; trong chỉnh đốn tổ chức, đã nhận định sai về tình hình

tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn, cho rằng về cơ bản đã bị địch lũng đoạn, từ đó dẫn đến

xử lý oan những cán bộ, đảng viên tốt. Sai lầm này đã gây ra một số tổn thất đối với

Đảng và quan hệ giữa Đảng với nhân dân.

Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) tháng 9 - 1956

đã nghiêm khắc kiểm điểm những sai lầm, công khai tự phê bình trước nhân dân thi

hành kỷ luật đối với một số uỷ viên Bộ Chính trị và uỷ viên Trung ương Đảng và thành

khẩn tiến hành sửa sai một cách kiên quyết, khẩn trương, thận trọng và có kế hoạch lãnh

đạo chặt chẽ, nên từng bước đã khắc phục được những sai lầm trong cải cách ruộng đất.

Cuối năm 1957, công cuộc khôi phục kinh tế đã vượt chỉ tiêu đặt ra:

Các xí nghiệp quan trọng được phục hồi và tăng thêm thiết bị, một số xí nghiệp

mới được xây dựng; mọi hoạt động kinh tế ở miền Bắc

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net

#fao8