chien dich guadalcanal

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Thời gian 7 tháng 8 năm 1942 - 9 tháng 2 năm 1943

Địa điểm Guadalcanal thuộc Quần đảo Solomon

Kết quả Thắng lợi chiến lược cho phía Đồng Minh

Tham chiến

Hoa Kỳ

Úc

New Zealand

Anh Quốc (cư dân quần đảo Solomon) [1]

Tonga[2]

Fiji[3]

Đế quốc Nhật Bản

Chỉ huy

Robert Ghormley

William Halsey, Jr.

Richmond K. Turner

Alexander Vandegrift

Alexander Patch

Isoroku Yamamoto

Nishizo Tsukahara

Jinichi Kusaka

Hitoshi Imamura

Harukichi Hyakutake

Lực lượng

60.000 [4]

36.200[5]

Tổn thất

7.100 chết

4 bị bắt

29 tàu

615 máy bay[6]

31.000 chết

1.000 bị bắt

38 tàu

683-880 máy bay[7]

.

Chiến dịch Guadalcanal, còn gọi là Trận Guadalcanal, và tên mã của Đồng Minh là Chiến dịch Watchtower, diễn ra từ ngày 7 tháng 8 năm 1942 đến ngày 9 tháng 2 năm 1943 trên đảo Guadalcanal và khu vực phụ cận tại quần đảo Solomon của Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Việc tranh chấp diễn ra ác liệt cả trên bộ, trên biển và trên không; chiến dịch này là cuộc tấn công lớn đầu tiên của phe Đồng Minh chống lại Đế quốc Nhật Bản sau một thời gian dài phòng thủ.[8]

Vào ngày 7 tháng 8 năm 1942, lực lượng Đồng Minh, chủ yếu là Mỹ, thực hiện đổ bộ lên các đảo Guadalcanal, Tulagi, và Florida (Nggela Sule) phía Nam quần đảo Solomon với mục tiêu ngăn chặn quân Nhật sử dụng chúng làm căn cứ đe dọa con đường vận chuyển từ Mỹ đến Australia và New Zealand. Đồng Minh còn định sử dụng Guadalcanal và Tulagi như những căn cứ hỗ trợ cho chiến dịch chiếm đóng hoặc vô hiệu hóa căn cứ chủ lực của Nhật tại Rabaul trên đảo New Britain. Lực lượng Đồng Minh đã áp đảo số lượng quân Nhật phòng thủ nhỏ bé, vốn đã chiếm đóng các đảo này từ tháng 5 năm 1942, chiếm giữ Tulagi và Florida cùng một sân bay (sau này được đặt tên là Henderson[9]) đang được xây dựng trên đảo Guadalcanal.

Bị bất ngờ bởi đòn tấn công của Đồng Minh, phía Nhật Bản từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1942 đã nhiều lần tìm cách chiếm lại sân bay Henderson. Ba trận chiến lớn trên bộ, năm trận hải chiến lớn, và các cuộc không chiến diễn ra liên tục hầu như hàng ngày, mà đỉnh điểm là trận Hải chiến Guadalcanal mang tính quyết định vào đầu tháng 11 năm 1942, trong đó nỗ lực cuối cùng nhằm tăng viện đủ số lượng binh lính để chiếm lại sân bay Henderson bị đánh bại. Sang tháng 12 năm 1942, phía Nhật từ bỏ mọi hy vọng tái chiếm Guadalcanal và triệt thoái các lực lượng còn lại vào ngày 7 tháng 2 năm 1943.

Chiến dịch Guadalcanal đánh dấu một chiến thắng chiến lược đáng kể nhờ phối hợp các binh chủng bởi lực lượng Đồng Minh đối với Nhật Bản tại mặt trận Thái Bình Dương. Quân Nhật đã đạt đến cao trào trong sự xâm chiếm của họ tại Thái Bình Dương, và Guadalcanal đánh dấu sự chuyển mình của Đồng Minh từ các chiến dịch phòng thủ sang tấn công chiến lược tại mặt trận này.

[sửa] Bối cảnh

Ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật Bản tấn công Hạm đội Thái Bình Dương tại Trân Châu Cảng thuộc quần đảo Hawaii. Cuộc tấn công đã đánh bại hạm đội thiết giáp hạm Mỹ, chính thức khai mào cuộc chiến tranh giữa hai nước. Mục tiêu ban đầu của những nhà lãnh đạo Nhật Bản là vô hiệu hóa Hải quân Mỹ, chiếm đóng các vùng đất giàu tài nguyên thiên nhiên và thiết lập các căn cứ quân sự chiến lược nhằm bảo vệ vòng ngoài cho Đế quốc Nhật Bản tại Châu Á và Thái Bình Dương. Đi xa hơn các mục tiêu đó, lực lượng Nhật Bản đã chiếm đóng Philippines, Thái Lan, Malaya thuộc Anh, Singapore, Đông Ấn thuộc Hà Lan, đảo Wake, quần đảo Gilbert, New Britain và Guam. Tham gia cùng với Mỹ trong cuộc chiến chống lại Nhật Bản là tất cả các thế lực Đồng Minh, nhiều nước trong số đó, bao gồm Anh Quốc, Australia và Hà Lan, cũng bị Nhật Bản tấn công.[10]

Hai dự tính của Nhật Bản muốn duy trì thế chủ động chiến lược và mở rộng vành đai phòng thủ về phía Nam và Trung Thái Bình Dương đã bị ngăn trở trong những trận hải chiến tại biển Coral và Midway. Midway không chỉ là một chiến thắng lớn đầu tiên của phía Đồng Minh trước đối thủ Nhật Bản chưa hề nếm mùi chiến bại, nó còn làm suy giảm đáng kể khả năng tấn công của lực lượng tàu sân bay Nhật. Cho đến lúc này, phía Đồng Minh vẫn còn trong thế phòng ngự tại Thái Bình Dương, nhưng những thắng lợi chiến lược này cho họ cơ hội lấy lại quyền chủ động chiến lược từ tay quân Nhật.[11]

Đồng Minh đã chọn quần đảo Solomon, một vùng đất dưới quyền bảo hộ của Anh, đặc biệt là các đảo phía Nam gồm Guadalcanal, Tulagi, và Florida như những mục tiêu ban đầu.[12] Hải quân Nhật đã chiếm đóng Tulagi vào tháng 5 năm 1942 và xây dựng một căn cứ thủy phi cơ gần đó. Sự lo ngại của phía Đồng Minh gia tăng, khi vào đầu tháng 7 năm 1942, Hải quân Nhật bắt đầu xây dựng một sân bay lớn tại Lunga Point trên đảo Guadalcanal kế cận. Đến tháng 8 năm 1942, quân Nhật có khoảng 900 lính hải quân trú đóng tại Tulagi và các đảo lân cận, và 2.800 người trên đảo Guadalcanal (2.200 trong số đó là lao động người Triều Tiên và các chuyên viên xây dựng Nhật Bản dân sự). Các căn cứ này, một khi hoàn tất, sẽ bảo vệ cho căn cứ trọng yếu của quân Nhật tại Rabaul, đe dọa con đường tiếp tế và liên lạc của Đồng Minh đến Australia và New Zealand, và là một khu vực tập trung quân cho chiến dịch được dự định tấn công vào Fiji, New Caledonia và Samoa. Quân Nhật dự định bố trí 45 máy bay tiêm kích và 60 máy bay ném bom đến Guadalcanal một khi sân bay hoàn tất. Những máy bay này sẽ hỗ trợ trên không cho lực lượng hải quân tiến sâu hơn vào khu vực Nam Thái Bình Dương.[13]

Kế hoạch của Đồng Minh nhằm chiếm đóng Nam Solomon là sáng kiến của Đô đốc Ernest King, Tổng tư lệnh Hạm đội Hoa Kỳ. Ông đề nghị cuộc tấn công này nhằm ngăn chặn việc quân Nhật sử dụng các hòn đảo làm căn cứ đe dọa con đường tiếp tế giữa Hoa Kỳ và Australia, và sử dụng chúng như những điểm xuất phát các cuộc tấn công trong tương lai. Được sự tán thành ngấm ngầm của Tổng thống Roosevelt, King hết lòng bênh vực cho cuộc chiếm đóng Guadalcanal. Khi Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Lục quân George C. Marshall phản đối hoạt động trên tuyến này đồng thời đặt vấn đề ai sẽ chỉ huy chiến dịch, King nhấn mạnh rằng Hải quân và Thủy quân Lục chiến sẽ tự thân thực hiện chiến dịch này, và chỉ thị cho Đô đốc Chester Nimitz tiến hành vạch kế hoạch sơ thảo. Cuối cùng thì King cũng chiến thắng trong cuộc tranh luận, và cuộc tấn công được tiến hành dưới sự hậu thuẩn của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân.[14]

Chiến dịch Guadalcanal được thực hiện phối hợp cùng một chiến dịch tấn công tại New Guinea dưới quyền chỉ huy của tướng Douglas MacArthur nhằm chiếm lấy các quần đảo Admiralty và Bismarck, kể cả căn cứ chủ lực của Nhật tại Rabaul. Mục tiêu cuối cùng của nó là việc Mỹ sẽ tái chiếm Philippines.[15] Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân cho thành lập Mặt trận Nam Thái Bình Dương do Phó Đô đốc Robert L. Ghormley chỉ huy kể từ ngày 19 tháng 6 năm 1942, để chỉ đạo cuộc tấn công tại khu vực Solomon. Đô đốc Chester Nimitz, đặt bộ chỉ huy tại Trân Châu Cảng, được chỉ định làm Tổng tư lệnh lực lượng Đồng Minh tại Thái Bình Dương.[16]

Để chuẩn bị cho các hoạt động sắp tới tại Thái Bình Dương, vào tháng 5 năm 1942, Thiếu tướng Thủy quân Lục chiến Alexander Vandegrift được lệnh điều động Sư đoàn 1 Thủy quân Lục chiến của ông từ Hoa Kỳ đến New Zealand. Các đơn vị lục quân, hải quân và không quân Đồng Minh khác được gửi đến để thiết lập các căn cứ tại Fiji, Samoa, New Hebrides và New Caledonia.[17] Espiritu Santo thuộc New Hebrides được chọn để đặt bộ chỉ huy và là căn cứ chính của cuộc tấn công, vốn được đặt tên mã là Chiến dịch Watchtower, và ngày dự định thực hiện được đặt ra là 7 tháng 8 năm 1942. Thoạt tiên, cuộc tấn công của Đồng Minh được vạch kế hoạch nhắm vào Tulagi và quần đảo Santa Cruz, bỏ qua Guadalcanal. Tuy nhiên, sau khi trinh sát phát hiện ra các nỗ lực xây dựng sân bay Nhật trên đảo Guadalcanal, việc chiếm nó được bổ sung vào kế hoạch, và cuối cùng việc đổ bộ lên Santa Cruz bị loại bỏ.[18] Thông qua tình báo vô tuyến, quân Nhật có biết được sự điều động quân lực với quy mô lớn tại khu vực Nam Thái Bình Dương, nhưng họ cho rằng Đồng Minh đang củng cố phòng thủ cho Australia và có thể cho Port Moresby tại New Guinea.[19]

Lực lượng tham gia Chiến dịch Watchtower, bao gồm 75 tàu chiến và tàu vận tải của cả Mỹ và Australia, được tập trung gần Fiji vào ngày 26 tháng 7 năm 1942, và tham gia một cuộc tổng dượt đổ bộ trước khi lên đường hướng đến Guadalcanal vào ngày 31 tháng 7.[20]. Chỉ huy trưởng lực lượng viễn chinh Đồng Minh tại chỗ là Phó Đô đốc Frank Fletcher, đặt cờ hiệu của mình trên tàu sân bay Saratoga. Chỉ huy lực lượng đổ bộ là Chuẩn Đô đốc Richmond K. Turner. Thiếu tướng Vandegrift dẫn đầu lực lượng bộ binh Đồng Minh khoảng 16.000 người (chủ yếu là Thủy quân Lục chiến Mỹ) để thực hiện đổ bộ.[21]

[sửa] Cuộc đổ bộ

Thời tiết xấu đã giúp cho lực lượng viễn chinh Đồng Minh tiến gần đến Guadalcanal mà không bị quân Nhật trông thấy vào buổi sáng ngày 7 tháng 8 năm 1942.[22] Lực lượng đổ bộ được chia thành hai nhóm, một tấn công lên Guadalcanal, và nhóm kia vào Tulagi, Florida và các đảo lân cận.[23] Các tàu chiến Đồng Minh tiến hành nả pháo các bãi đổ bộ trong khi máy bay từ các tàu sân bay ném bom các vị trí của quân Nhật trên các đảo mục tiêu, và tiêu diệt 15 thủy phi cơ Nhật tại căn cứ của chúng gần Tulagi.[24] Tulagi và hai đảo nhỏ lân cận Gavutu và Tanambogo bị một lực lượng 3.000 Thủy quân Lục chiến Mỹ tấn công.[25] Lực lượng hải quân Nhật gồm 886 người trú đóng tại căn cứ hải quân và căn cứ thủy phi cơ đã kháng cự kịch liệt cuộc tấn công của Mỹ.[26] Với đôi chút khó khăn, Thủy quân Lục chiến Mỹ chiếm được cả ba hòn đảo; Tulagi vào ngày 8 tháng 8, còn Gavutu và Tanambogo vào ngày 9 tháng 8.[27] Quân Nhật phòng thủ trên các đảo bị tiêu diệt hầu như cho đến người cuối cùng, trong khi Thủy quân Lục chiến Mỹ chịu tổn thất 122 người tử trận.[28]

Tương phản với Tulagi, Gavutu, và Tanambogo, cuộc đổ bộ lên Guadalcanal gặp phải rất ít sự kháng cự. Lúc 09 giờ 10 phút ngày 7 tháng 8, tướng Vandegrift cùng 11.000 Thủy quân Lục chiến đổ bộ lên Guadalcanal tại địa điểm giữa Koli Point và Lunga Point. Tiến quân về phía Lunga Point, họ không gặp phải bất kỳ sự kháng cự nào ngoại trừ những cơn mưa rào nhiệt đới "lộn xộn", và họ phải dừng lại nghỉ đêm cách sân bay tại Lunga Point không đầy 900 m (1.000 yard). Ngày hôm sau, chỉ gặp sự chống cự yếu ớt, Thủy quân Lục chiến tiến đến sông Lunga và hoàn toàn kiểm soát sân bay lúc 16 giờ 00 phút ngày 8 tháng 8. Các đơn vị xây dựng hải quân và đơn vị chiến đấu Nhật Bản, dưới quyền chỉ huy của Đại úy Kanae Monzen, hoảng loạn do các loạt hải pháo và các cuộc ném bom, đã bỏ khu vực sân bay tháo chạy về phía Tây cách khoảng 5 km (3 dặm) cạnh sông Matanikau và khu vực Point Cruz, bỏ lại phía sau lương thực, tiếp liệu, xe cộ và máy móc xây dựng còn nguyên vẹn cùng 13 người chết.[29]

Trong khi cuộc đổ bộ đang diễn ra vào các ngày 7 và 8 tháng 8, máy bay Hải quân Nhật đặt căn cứ tại Rabaul dưới sự chỉ huy của Sadayoshi Yamada đã nhiều lần tấn công lực lượng đổ bộ Đồng Minh, làm cháy chiếc tàu vận tải Mỹ George F. Elliot (nó chìm hai ngày sau đó) và làm hỏng nặng chiếc tàu khu trục Jarvis.[30] Trong hai ngày giao chiến, phía Nhật mất 36 máy bay, trong khi các tàu sân bay Mỹ thiệt hại 19 chiếc do cả chiến đấu lẫn tai nạn, trong đó có 14 máy bay tiêm kích.[31]

Sau các trận không chiến này, Fletcher tỏ ý e ngại về sự thiệt hại của lực lượng tiêm kích trên các tàu sân bay của ông, về nguy cơ các tàu sân bay tiếp tục bị không kích, và về tình trạng nhiên liệu của các con tàu. Ông quyết định rút lui lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay của mình khỏi khu vực quần đảo Solomon vào chiều tối ngày 8 tháng 8.[32] Do không có được sự yểm trợ trên không của các tàu sân bay, Turner cũng cho rút lui các tàu bè của mình khỏi khu vực Guadalcanal, cho dù chưa đến nữa các trang thiết bị hạng nặng và tiếp liệu cần thiết cho lực lượng trên bờ được bốc dỡ.[33] Dù sao, Turner cũng dự định cho bốc dỡ hàng tiếp liệu càng nhiều càng tốt cho Guadalcanal và Tulagi trong suốt đêm 8 tháng 8, và chỉ cho khởi hành các con tàu vận tải của mình vào sáng sớm ngày 9 tháng 8.[34]

Đêm hôm đó, trong khi các con tàu vận tải đang được bốc dỡ, hai nhóm tàu chiến Đồng Minh hộ tống dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Hải quân Hoàng gia Victor Crutchley hoàn toàn bị bất ngờ và bị đánh bại bởi một lực lượng hạm đội Nhật bao gồm bảy tàu tuần dương và một tàu khu trục của Hạm đội 8 Nhật Bản, đặt căn cứ tại Rabaul và Kavieng dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Gunichi Mikawa. Một tàu tuần dương Australia và ba tàu tuần dương Mỹ bị đánh chìm, và một tàu tuần dương Mỹ cùng hai tàu khu trục bị hư hại trong Trận chiến đảo Savo. Lực lượng Nhật Bản chỉ bị hư hại một tàu tuần dương. Tuy nhiên, Mikawa, lo lắng về nguy cơ bị các tàu sân bay Mỹ không kích vào lúc trời sáng nếu chần chừ ở lại, và không biết rằng Fletcher đã rút lui cùng các tàu sân bay Mỹ, đã ra lệnh cho hạm đội rút lui ngay về Rabaul, bỏ qua cơ hội tấn công các con tàu vận tải mà giờ đây không được bảo vệ. Sau đó, Turner cho rút tất cả các lực lượng hải quân Đồng Minh tại khu vực vào chiều tối ngày 9 tháng 8, để lại lực lượng Thủy quân Lục chiến trên bờ mà không có đủ vũ khí hạng nặng và tiếp liệu. Tuy nhiên, quyết định của Mikawa không tấn công các con tàu vận tải Đồng Minh khi ông có cơ hội đã tỏ ra là một sai lầm chiến lược nghiêm trọng.[35]

[sửa] Các chiến dịch ban đầu

Lực lượng 11.000 lính Thủy quân Lục chiến trên đảo Guadalcanal trước tiên tập trung vào việc thiết lập một ngoại vi phòng thủ chung quanh Lunga Point và sân bay, di chuyển hàng tiếp liệu đã bốc dỡ được vào bên trong phạm vi này, và hoàn tất việc xây dựng sân bay. Sau bốn ngày nỗ lực khẩn trương, số hàng tiếp liệu được chuyển từ bãi đổ bộ đến các kho phân tán trong phạm vi bảo vệ. Công việc hoàn tất sân bay được tiến hành ngay lập tức, chủ yếu bằng các thiết bị chiếm được của quân Nhật. Vào ngày 12 tháng 8, sân bay được đặt tên là Henderson Field theo tên của một phi công Thủy quân Lục chiến, Lofton R. Henderson, hy sinh trong Trận Midway. Đến ngày 18 tháng 8, sân bay sẵn sàng hoạt động.[36] Lúc đó chỉ có năm ngày lương thực được dỡ xuống từ các tàu vận chuyển, cộng với số chiếm được từ quân Nhật, cho phép lực lượng Thủy quân Lục chiến có được 14 ngày lương thực.[37] Để dành dụm tiếp liệu lượng thực, các đơn vị bị giới hạn chỉ được hai bữa ăn mỗi ngày.[38] Lực lượng Đồng Minh còn mắc phải chứng bệnh tiêu chảy nặng không lâu sau khi đổ bộ, cứ mỗi năm người thì có một người mắc phải vào giữa tháng 8. Cho dù có một số ít công nhân xây dựng người Triều Tiên ra đầu hàng, đa số người Nhật và người Triều Tiên còn lại tập trung ngay phía Đông ngoại vi Lunga bên bờ Tây sông Matanikau và sống sót chủ yếu nhờ vào dừa. Một trạm quan sát hải quân Nhật cũng được phát hiện tại Taivu Point cách khoảng 35 km (22 dặm) phía Đông ngoại vi Lunga. Vào ngày 8 tháng 8, một tàu khu trục Nhật từ Rabaul đã chuyển 113 lính thủy đến tăng cường cho Matanikau.[39]

Chiều tối ngày 12 tháng 8, một lực lượng tuần tra Thủy quân Lục chiến 25 người do Trung tá Frank Goettge dẫn đầu, chủ yếu gồm các nhân viên tình báo, đổ bộ bằng xuồng bên ngoài ngoại vi Lunga giữa Point Cruz và sông Matanikau; họ thực hiện một nhiệm vụ trinh sát, và một mục đích phụ nhằm tiếp xúc với một nhóm binh sĩ Nhật mà phía Mỹ tin rằng có ý định đầu hàng. Không lâu sau khi nhóm tuần tra đổ bộ lên bờ, họ bị một trung đội quân Nhật đóng gần đó tấn công và tiêu diệt hầu như toàn bộ nhóm tuần tra.[40]

Để đáp trả, ngày 19 tháng 8, Vandegrift tung ra ba đại đội thuộc Trung đoàn 5 Thủy quân Lục chiến tấn công quân Nhật đang tập trung tại phía Tây Matanikau. Một đại đội tấn công vượt qua cồn cát tại cửa sông Matanikau trong khi một đại đội khác vượt sông cách 1.000 m về phía nội địa và tấn công các lực lượng Nhật đóng trong làng Matanikau. Đại đội thứ ba đổ bộ bằng xuồng xa hơn về phía Tây để tấn công làng Kokumbuna. Sau khi chiếm giữ hai làng một thời gian ngắn, ba đại đội Thủy quân Lục chiến quay trở về ngoại vi Lunga sau khi diệt được khoảng 65 lính Nhật và tổn thất bốn người. Hoạt động này, đôi khi được gọi là "Trận Matanikau thứ nhất", là trận đánh đầu tiên trong nhiều hoạt động dọc sông Matanikau trong suốt chiến dịch.[41]

Ngày 20 tháng 8, chiếc tàu sân bay hộ tống Long Island chuyển giao hai phi đội máy bay Thủy quân Lục chiến đến sân bay Henderson, một phi đội 19 chiếc máy bay tiêm kích Grumman F4F Wildcat, và phi đội kia có 12 chiếc máy bay ném bom SBD Dauntless. Những chiếc máy bay tại Henderson bắt đầu được biết đến dưới tên gọi "Không lực Cactus" (Không lực Xương rồng, CAF) do tên mã mà Đồng Minh đặt cho Guadalcanal. Những chiếc máy bay tiêm kích bắt đầu hoạt động ngay ngày hôm sau, chống trả lại các cuộc ném bom Nhật Bản diễn ra hầu như hàng ngày. Đến ngày 22 tháng 8, chúng được bổ sung bởi năm chiếc P-400 Airacobra Lục quân cùng phi công.[42]

[sửa] Trận Tenaru

Phản ứng lại việc Đồng Minh đổ bộ lên Guadalcanal, Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản giao cho Tập đoàn quân 17, một bộ chỉ huy cỡ quân đoàn đặt căn cứ tại Rabaul dưới quyền chỉ huy của Trung tướng Harukichi Hyakutake, nhiệm vụ tái chiếm Guadalcanal. Tập đoàn quân này được sự hỗ trợ của các đơn vị Hải quân Nhật, kể cả Hạm đội Liên hợp dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Isoroku Yamamoto, đặt căn cứ tại Truk. Vào lúc này, Tập đoàn quân 17 đang bận rộn tham gia hoạt động tại New Guinea nên chỉ có ít đơn vị dự bị. Trong số đó, Lữ đoàn bộ binh 35 của Thiếu tướng Kiyotake Kawaguchi đang ở Palau, Trung đoàn 4 bộ binh Aoba đang ở Philippines và Trung đoàn 28 bộ binh Ichiki dưới quyền chỉ huy của Đại tá Kiyonao Ichiki đang trên tàu vận chuyển gần đảo Guam. Các đơn vị khác nhau lập tức bắt đầu di chuyển về phía Guadalcanal ngang qua Truk và Rabaul, nhưng Trung đoàn Ichiki, vốn là đơn vị ở gần nhất, đã đến khu vực này trước tiên. Một "Lực lượng thứ nhất" của đơn vị Ichiki, với khoảng 917 binh sĩ, đã đổ bộ từ các tàu khu trục lên Taivu Point, phía Đông ngoại vi Lunga vào ngày 19 tháng 8.[43]

Đánh giá thấp sức mạnh của Lực lượng Đồng Minh trên đảo Guadalcanal, đơn vị của Ichiki thực hiện một cuộc tấn công trực diện ban đêm vào vị trí của Thủy quân Lục chiến tại lạch Alligator (cũng được gọi là "sông Ilu" trên bản đồ quân Mỹ) phía Đông ngoại vi Lunga vào những giờ đầu tiên của ngày 21 tháng 8. Cuộc tấn công của Ichiki bị đánh bại với tổn thất nặng cho quân Nhật, và được biết đến dưới tên gọi Trận Tenaru. Lúc trời sáng, các đơn vị Thủy quân Lục chiến phản công vào các lực lượng của Ichiki còn sống sót, tiêu diệt thêm nhiều người trong đó có chính Ichiki. Tổng cộng, chỉ còn lại 128 người trong tổng quân số 917 của Lực lượng thứ nhất Trung đoàn Ichiki. Những người sống sót quay trở về Taivu Point, báo cáo cho Bộ chỉ huy Tập đoàn quân 17 sự thất bại của họ, chờ đợi tăng viện và chỉ thị từ Rabaul.[44]

[sửa] Trận chiến đông Solomons

Khi trận Tenaru kết thúc, có thêm nhiều lực lượng tăng cường Nhật Bản sẵn sàng lên đường. Khởi hành từ Truk vào ngày 16 tháng 8 là ba tàu vận tải chậm chạp chở 1.400 binh sĩ còn lại của Trung đoàn 28 bộ binh Ichiki và 500 lính thủy thuộc đơn vị Yokosuka 5 Đổ bộ Đặc biệt.[45] Bảo vệ các con tàu vận tải là 13 tàu chiến dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Raizo Tanaka, với kế hoạch đổ bộ các lực lượng nói trên lên đảo Guadalcanal vào ngày 24 tháng 8.[46] Để bảo vệ cho cuộc đổ bộ các lực lượng trên và để hỗ trợ cho việc tái chiếm sân bay Henderson từ tay Đồng Minh, Yamamoto chỉ thị cho Đô đốc Chuichi Nagumo xuất phát cùng một lực lượng tàu sân bay từ Truk vào ngày 21 tháng 8 hướng đến khu vực Nam quần đảo Solomon. Lực lượng của Nagumo bao gồm ba tàu sân bay và 30 tàu chiến khác.[47]

Cùng lúc đó, ba đội đặc nhiệm tàu sân bay Mỹ của Đô đốc Fletcher cũng tiến đến Guadalcanal để đối phó các nỗ lực tấn công của quân Nhật. Trong các ngày 24 và 25 tháng 8, hai lực lượng tàu sân bay đối đầu với nhau

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net