Những bàn chân nóng (2)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


ii.

Ai đẽo nên những con búp bê?

~~~

Riêng trong ngày hôm nay đã có tới hơn mười người tìm đến trụ sở cảnh sát của Edinburgh, với trên tay là những con búp bê bằng gỗ trong hình thù gớm ghiếc. Tất cả đều mô phỏng hình dáng của một con người. Họ nói rằng nếu như cảnh sát không sớm vào cuộc, công viên Hollyrood sớm sẽ hóa thành một nơi trưng bày búp bê ma. Ngay lúc này, những con búp bê như thế đang được rải đầy nhóc trong từng lối đi bụi cỏ của khu công viên hoàng gia nổi tiếng.

Sherrinford khi ấy cũng đang có mặt ở Edinburgh. Hay nói chính xác hơn, anh có mặt ở chính trụ sở cảnh sát và chứng kiến người dân tìm đến rồi ném vào mặt thanh tra của sở đám búp bê kia kèm theo nỗi hoang mang của họ.

Con người luôn dễ bị dọa dẫm bởi những thứ không đâu. Và hiệu ứng đám đông thì luôn thực đáng sợ. Chỉ bằng vài con búp bê gỗ, kẻ đứng sau trò này đã thành công trong việc trêu đùa cả thành Edinburgh. Bằng chứng là người dân đã kéo đến chật kín công viên Hollyrood khi Sherrinford tới hiện trường điều tra. Thậm chí còn không thiếu những tay săn ảnh và cánh nhà báo. Sherrinford trông thấy một vài kẻ làm việc cho tờ Times. Anh đã nhẵn mặt với chúng qua hàng chục vụ án.

Viên thanh tra của Scotland Yard nhanh chóng lách qua đám đông đứng chật kín cả những con đường lát đá. Đôi mắt màu lam lướt nhanh qua những con búp bê nằm trơ trọi trên đất, rồi anh dò dẫm trên từng vuông cỏ, lùng sục trong từng bụi cây, say mê và tập trung như thể những tạp âm xung quanh không hề tồn tại. Trong tầm nhìn và trong nhận thức của anh lúc này, chỉ tồn tại một thứ duy nhất là hình thù của những con búp bê gỗ.

"Huy động lực lượng tập trung tất cả búp bê lại cho tôi."

Sherrinford nói trong khi chui rúc vào một bụi lý gai. Anh ra lệnh mà quên mất mình không ở London mà đang làm việc với đội của Scotland. Mấy viên cảnh sát trợn mắt nhìn anh, có vẻ vừa kinh ngạc vừa bực dọc trước điệu sẵng giọng ra lệnh của Sherrinford.

Sự im lặng nói với Sherrinford Doyle rằng anh đang quá phận, nên anh khẽ hắng giọng.

"Chúng ta nên tập trung tất cả búp bê lại. Tôi nhìn ra chúng có một vài điểm đáng ngờ."

Chừng hơn một tiếng sau, tất cả búp bê được tập trung lại một chỗ, xếp lên thành một đống cao tới nửa người. Dân chúng hiếu kì xúm đầu xem rồi bàn tán xôn xao. Sherrinford chẳng nói chẳng rằng phăm phăm tiến tới gần đống búp bê, sau một hồi bới móc thì lôi ra đúng 17 con búp bê có hình thù hoàn toàn khác nhau. Anh xếp chúng ngay ngắn trên đất, hơi cau mày khi đánh giá.

"Số lượng búp bê phải lên tới hàng nghìn con, nhưng chúng chỉ phỏng theo hình dáng của 17 con này."

Những tiếng ồ thán phục vang lên khe khẽ.

"Nếu chỉ muốn đùa nghịch và hăm dọa, việc tạo hình tới 17 con búp bê khác nhau rõ ràng là một việc vô nghĩa. Tôi nghĩ số 17 này mang một ẩn nghĩa nào đó. À không, không phải số 17, mà là hình dáng của 17 con búp bê này mới mang ẩn nghĩa."

Đôi mắt màu lam của viên thanh tra nhìn như muốn xuyên thủng thớ gỗ sồi để lôi ra những thứ mà 17 con búp bê thật sự cất giấu. Những con búp bê này không hề xinh đẹp- dĩ nhiên, nếu không muốn nói là quá xấu. 17 con búp bê mô phỏng 17 hình người, trai gái ở độ tuổi khác nhau. Mỗi con lại được mặc vào một bộ quần áo riêng biệt.

Sherrinford vươn tay nhấc lên con búp bê khắc theo hình dáng một cô gái trẻ tuổi tóc màu nâu vàng. Bỗng nhiên có tiếng kêu khe khẽ vọng ra từ đám đông, mang vẻ nghi ngờ lẫn thảng thốt.

"Là Mary!?"

Đôi tai của Sherrinford rất nhanh đã bắt được tiếng nói ấy. Anh quay đầu nhìn cô gái trẻ đang rẽ đám đông tiến về phía mình. Nhịp bước của đôi giày cao gót vội vàng và hoảng sợ.

Cô gái trẻ có vẻ hơi kích động. Ban đầu cô định giật con búp bê trên tay Sherrinford nhưng kịp thời kìm lại khi trông thấy cái nhìn chòng chọc của đám đông. Cô hắng giọng và lùi về sau, giọng nói dù đã cố gắng ghìm giữ nhưng vẫn không thể che đi vẻ run rẩy.

"Tôi là Janet Brown, hiện đang sống ở khu Old Town. Ngài cho thể cho phép tôi xem con búp bê này được không, thưa ngài thanh tra?"

"Dĩ nhiên rồi, thưa cô."

Sherrinford chìa cho cô gái trẻ con búp bê gỗ. Anh linh cảm rằng cô gái này biết thứ gì đó. Thứ sẽ trở thành mấu chốt của vụ án này.

Cô gái xăm soi con búp bê một cách cẩn trọng. Ban đầu đôi mắt cô mở lớn, Sherrinford có thể trông thấy mi mắt của cô hơi run lên. Rồi cô vội vàng dúi lại con búp bê vào tay người thanh tra, hấp tấp như thể muốn tống khứ nó đi ngay lập tức trước khi điềm xui kéo đến và ám vào người.

"Con búp bê này có gì đặc biệt với cô sao, cô Brown?"

"Tôi không rõ, thưa ngài. Nhưng nhìn nó thực sự rất giống một người quen của tôi. Ý tôi là con búp bê này như thể được khắc theo hình dáng của bạn tôi vậy. Tôi không chắc, thưa ngài. Có lẽ chỉ là trùng hợp thôi. Dù sao Mary cũng sở hữu một vẻ ngoài khá phổ thông."

"Có thể cho tôi biết thêm về bạn của cô không? Hoặc, cô biết đấy, nếu có ảnh của cô ấy thì càng tốt."

"Cô ấy tên Mary. Mary Patterson. Chúng tôi quen biết nhau đã 5 năm nay rồi. Còn về ảnh thì tôi nghĩ tôi có giữ một tấm ở trong túi."

Cô gái tên Janet Brown chìa về phía Sherrinford một bức ảnh đen trắng. Bức ảnh chụp cô đứng cạnh một cô gái khác, có vóc người hơi đậm, tóc màu nâu vàng, gương mặt đầy đặn và một đôi mắt hơi xếch. Cô gái đứng cạnh Janet ở trong tấm ảnh quả nhiên có những đường nét rất giống với con búp bê gỗ mà Sherrinford cầm trên tay.

Người thanh tra có thể cảm nhận được mạch máu dưới da đang sôi lên ùng ục. Anh có cảm giác sự thật mình sắp được tiếp cận không chỉ đơn giản là trò đùa về những con búp bê gỗ.

"Bạn cô, Mary Patterson hiện giờ đang ở đâu, cô Brown?"

Giọng Janet đột nhiên trở nên nghẹn ngào. Cô cầm lại bức ảnh nhét cẩn thận vào trong túi, đoạn đáp trả.

"Cô ấy mất tích đã một tháng nay rồi, thưa ngài."

"Cô ấy mất tích rồi? Cụ thể sự việc thế nào?"

"Cách đây khoảng một tháng, ngày hôm đó tôi và Mary đang dạo chơi trên phố, trời lúc ấy cũng hơi tối rồi. Chúng tôi gặp hai người đàn ông lạ mặt, họ tiếp cận bắt chuyện và ngỏ ý mời chúng tôi về nhà ăn tối. Ngài biết đấy, mặc dù nói ra những lời vô cùng dễ nghe và tử tế, nhưng khi nhìn vào gương mặt nanh ác của hai kẻ đó, tôi đã biết chúng không phải loại người lương thiện. Tôi từ chối không đi về nhà hai gã đàn ông, nhưng Mary- cô ấy vẫn luôn ham vui và nhẹ dạ, thì lại lập tức bằng lòng. Kể từ hôm đó, cô ấy không còn trở về nhà nữa."

"Vậy cô có báo cho gia đình cô ấy không?"

"Tôi không thể, thưa ngài. Tôi không thể. Cha của Mary là một người đàn ông nghiêm khắc, gia trưởng và cực kỳ cổ hủ. Ông ấy thà tin rằng Mary đã chết, còn hơn là biết rằng cô ấy bỏ đi theo hai gã đàn ông rồi không trở về nhà."

Sherrinford hơi xiết con búp bê gỗ trong lòng bàn tay. Đoạn anh quay sang những thanh tra còn lại, nói.

"Tôi nghĩ chúng ta cần lục lại tất cả hồ sơ các vụ mất tích trong nửa năm gần đây. Phác lại chân dung của 17 con búp bê này và dán khắp thành phố, mong rằng sẽ có ai đó nhận ra người nhà của họ- giống như cô Janet Brown đây."

Nói xong, anh quay sang Janet.

"Cảm ơn những thông tin mà cô cung cấp, cô Brown. Cô vừa đóng góp cho màn vạch trần một âm mưu thế kỷ. Và tôi sẽ cảm thấy rất biết ơn nếu cô có thể phác họa lại chân dung của hai gã đàn ông đó."

"Dĩ nhiên, thưa ngài. Tôi nghĩ hai kẻ đó sống ở khu dân cư dưới gầm cầu South Bridge Vaults. Khu phố mà hôm đó tôi và Mary đi dạo ở ngay gần đó. Sau khi Mary đồng ý, tôi thấy họ đi về hướng này."

"Rất tốt. Vậy thì cô sẽ về Sở và phác lại chân dung của chúng, nếu cô không phiền."

"Tôi không phiền chút nào, thưa ngài. Còn một việc nữa, tôi không biết có đóng góp gì cho vụ án không..."

Janet nói một cách ngập ngừng, mắt liếc nhìn con búp bê gỗ trong tay Sherrinford.

"Nhưng trong lần cuối cùng tôi gặp Mary, tức là vào buổi tối hôm đó, cô ấy mặc bộ váy giống hệt con búp bê này."

Quan tài dưới đất mà xác trên cây

Lướt trên cỏ úa nhìn bia hỏi rằng.

Gió thổi hướng Nam hay Bắc?

Lấy tay hay lấy mắt?

Không không, tôi chỉ muốn lấy linh hồn.

Burke ngồi tựa vào quầy tính tiền, lẩm nhẩm bài đồng dao với một vẻ thích thú quái dị nở trên khóe miệng. Hare thấy thế thì ngẩng đầu khỏi bàn tính, gằn giọng quát.

"Im mồm đi, sao mày lúc nào cũng lảm nhảm cái bài hát quái đản đó thế?"

"Mày không thấy nó rất vui à? Nó làm tao nhớ tới những ngày mình đi trộm xác. Haha. Bọn nó còn đồn đại là do ma cà rồng."

Burke đáp lại lời gã bạn bằng một vẻ hồn nhiên hơi ngờ nghệch, mắt nhìn vào đám đông mọi rợ đang đi lại trong quán trọ của nhà Hare. Cũng đã gần một tháng rồi hai gã không đi trộm xác. Và có lẽ gã sẽ không bao giờ đi trộm xác nữa. Kể từ sau sự việc lần đó.

Burke dụi đầu thuốc lá vào cạnh bàn, nheo mắt nhìn Hare.

"Thằng quý tộc đó không biết ra sao rồi nhỉ?"

Những ngón tay thoăn thoắt trên bàn tính của Hare bỗng khựng lại. Gã không ngẩng đầu lên, nhưng đôi môi thâm xì vì thuốc phiện của gã nhếch một nụ cười hiểm ác.

"Có khi chết mất xác trong Hội Chợ Phù Hoa rồi. Lão Robert Knox muốn bẫy nó mà. Còn nó thì lại nghĩ rằng nó là kẻ nắm được thóp. Vẻ ngoài và túi tiền thường tỉ lệ nghịch với trí não, mày biết đấy."

Hare đáp lại Burke với một thái độ dạy đời. Burke im lặng, hơi khép mắt tận hưởng nốt những ngụm khói thuốc còn đọng lại trong cổ họng. Những kẻ từng rơi vào lưới nhền nhện của Hội Chợ Phù Hoa được chia làm hai kiểu, hoặc là sẽ sa bẫy và bị nuốt trọn, hoặc sẽ đủ sức mạnh để dùng vuốt mà phá tan cả lưới. Burke và Hare đã từng nghe đồn và chứng kiến ngót nghét 30 lần diễn ra Hội Chợ Phù Hoa, và trong 30 lần ấy, chỉ có duy nhất một kẻ rơi vào mà phá tan được lưới.

Sau buổi tối hôm đó, thi thoảng gã vẫn hay nghĩ về tên quý tộc Luân Đôn kia. Nhớ tới ánh mắt sắc lạnh và nụ cười nham hiểm của hắn. Kẻ đó gợi gã nhớ về một gương mặt đã từng gặp trước kia. Kẻ đã ghi tên vào lịch sử của các phiên chợ phù hoa ảo ảnh.

Dòng suy nghĩ vô định của Burke thình lình bị cắt ngang bởi tiếng đẩy cửa hơi thô bạo. Một gã đàn ông trông cục mịch mang theo gió và bóng đêm tiến vào. Hắn ta có vóc người gầy gò, da ngăm đen kiểu dân lao động, râu ria xồm xoàm cộng thêm chiếc mũ rách kéo xụp xuống khiến gương mặt gần như bị che khuất. Hắn đi tới quầy tính tiền, vừa đi vừa gập người ho sù sụ, dằn lên mặt quầy mấy đồng tiền nhàu nát.

"Tôi muốn thuê một căn phòng, kèm thêm cả bữa tối nữa."

Hare ngẩng lên nhìn người khách mới tiến vào, chẳng hề khó chịu với sự cộc cằn và vẻ ngoài bẩn thỉu kia, vì đó là những thứ gã đã quá quen thuộc. Những vị khách vào nhà trọ này đều như vậy. Nhưng từ khóe mắt gã chợt lóe lên một tia ranh mãnh khi trông thấy vị khách kia chốc chốc lại gập người ho.

"Ngài không sao chứ?"

Người khách cố kìm xuống cơn ho, đáp.

"Không có gì, chỉ là bệnh lao mãn tính thôi. Tôi cũng chẳng buồn bận tâm nữa. Tử thần có thể đến cướp cái mạng còm này bất cứ lúc nào."

Hare nheo mắt nhìn vẻ ốm yếu của người khách, trong một thoáng gã liếc sang nhìn Burke và bắt gặp tên bạn cũng đang nhìn người khách kia bằng ánh mắt của một con sói rình mồi. Gã kín đáo nởnụ cười, vơ lấy mớ tiền lẻ rồi đếm, đoạn hất cằm nhìn bà vợ- người phụ nữ đang cặm cụi dọn bàn cho khách cách đó không xa.

"Đưa anh ta lên căn phòng ở cuối dãy tầng hai."

Người phụ nữ nghe thấy thế liền giật nảy mình; ánh mắt tràn ngập một vẻ tội lỗi, ghê tởm và hoảng loạn không thể lí giải. Sau vài giây đứng thuỗn đơ không buồn phản ứng, cuối cùng dưới cái nhìn như muốn đốt cháy đối phương của Hare, cô đành cúi đầu đi về phía người khách, lí nhí bảo ông ta đi theo mình.

Chẳng mấy chốc bóng dáng của cả hai đã khuất sau chân cầu thang tối mịt.

Khoảng chừng hai tiếng sau thì quán trọ Hare William đóng cửa. Đêm hôm nay Burke không về. Hắn và Hare nhậu tới giữa đêm, dĩ nhiên người phục vụ cho buổi ăn uống ngả ngớn của chúng là người vợ tội nghiệp. Bọn chúng vừa uống rượu vừa thì thầm bàn với nhau về một kế hoạch nào đó. Một kế hoạch, hoặc sẽ khiến nhà trọ này nhấn sâu thêm vào vũng lầy bóng tối, hoặc sẽ khiến mọi thứ bẩn tưởi nó ôm trong mình được phơi bày ngoài ánh sáng.

Giữa đêm hôm đó, dãy cầu thang ọp ẹp vang lên những tiếng bước chân âm thầm.

Burke cầm thừng và Hare cầm giá nến, cả hai lặng lẽ bước qua dãy phòng trọ với những cánh cửa khép chặt. Men rượu trong cuộc nhậu ban nãy khiến bước chân của chúng hơi loạng choạng, nhưng chẳng hề gì, bởi vì tâm trí của chúng đang được một thứ khác dẫn đường. Ấy là ảo vọng về những tờ tiền mới coóng, những chai whisky ủ lâu năm, những đĩa thịt cừu tưới đẫm sốt bạc hà, và rất nhiều rất nhiều những thứ phù phiếm khác.

Chúng đi tới căn phòng nằm ở cuối dãy tầng hai. Hare lục lấy xâu chìa khóa gài ở thắt lưng, tra chìa vào ổ, khẽ vặn rồi đẩy cửa bước vào. Phòng không thắp đèn. Chỉ có ánh sáng từ giá nến thì không đủ xua đuổi bóng đêm, nhưng Hare có thể trông thấy một bóng người đang nằm quay lưng vào tường, chăn kéo lên che gần kín đầu. Kẻ đó ngủ rất say, tới mức dẫu tiếng bước chân của Burke và Hare vang lên cũng không buồn động đậy.

Hare hất cằm ra lệnh cho Burke, và tên đồng đội hiểm ác nhưng cục mịch từ từ tiến tới gần kẻ đang nằm trên giường, kéo căng sợi thừng trong tay rồi vòng qua cổ người kia, siết mạnh.

Đúng lúc đó từ trong góc phòng vụt ra một bóng đen, nhác trông không quá cao lớn nhưng vô cùng rắn chắc. Người đó lao nhanh về phía Burke, thẳng thừng dộng cho gã một đấm trúng ngay thái dương khiến gã ngã bổ xuống sàn. Hare thấy vậy thì siết chặt quai hàm, dùng giá nến cầm trên tay vung thật mạnh về phía kẻ lạ mặt. Nhưng giá nến còn chưa chạm tới người đó dù chỉ nửa phân, gã đã thấy cổ tay mình bị bẻ ngoặt về sau một cách bất thình lình.

Burke lồm cồm bò dậy, nhặt lấy giá nến rơi trên đất, định lao vào tấn công kẻ kia. Nhưng bước chân gã chùn lại ngay tức khắc khi gã nghe thấy tiếng chạy rầm rập trên dãy hành lang cổ. Âm thanh ấy đi kèm với ánh sáng hừng hực ngoài cửa sổ khiến Burke và Hare thất kinh. Chẳng mấy chốc cánh cửa phòng bị đá bật ra, dàn ngay lối đi là vô số những thanh tra mặc đồng phục của Sở cảnh sát Edinburgh.

Ánh sáng mà bọn họ mang tới cuối cùng cũng khiến Burke và Hare nhìn rõ tất thảy mọi điều. Người nằm trên giường không phải là ông khách ốm yếu sắp chết vì bệnh lao, mà là người vợ luôn tủi hổ và cam chịu của Hare. Cô đang nhìn chồng mình đứng giữa những họng súng của cảnh sát, vừa lắc đầu trong khi hai hàng nước mắt rơi lã chã, nhưng đâu đó trong đôi mắt của cô là một sự nhẹ nhõm như vừa được giải thoát khỏi xiềng xích tù đày.

Kẻ nằm trên giường không phải tên khách bệnh tật, vậy thì hắn ở đâu?

Hare đưa đôi mắt trố lồi nhìn một lượt quanh phòng, hai con ngươi lồng lên như muốn rớt ra khỏi tròng khi trông thấy một gã thanh niên đang cúi đầu tháo xuống cái mũ rách và bộ râu giả.

Sherrinford lôi từ trong túi cặp kính mắt tròn quen thuộc, cẩn thận gài lên sống mũi. Đoạn anh đưa mắt nhìn hai tên trộm xác- hay nên gọi là hai tên sát nhân đang đứng giữa phòng, dùng khớp tay trỏ để đẩy kính, anh nói.

"Burke William và Hare William, hai anh bị bắt vì tội trộm xác và là hung thủ giết chết 17 người."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net