DD cho xo gan

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng
phát ra nữa. Ðể xác định xem thức ăn nào bạn có thể dùng và thức ăn nào là không tốt cho bạn, bạn nên dùng bảng tường trình chế độ ăn để bảng này giúp bạn tìm được lời giải đáp. Ghi vào đó những gì mà bạn ăn vào, không có hoặc có triệu chứng gì xảy ra sau đó. Sau một thời gian ngắn bạn sẽ lập ra được danh mục thức ăn cho riêng bạn.

Khi bắt đầu, bạn nên chú ý đến các thực phẩm nêu dưới đây vì chúng được thống kê là gây ra sự không dung nạp cho nhiều bệnh nhân:

Rượu (wine)

Rượu mạnh (spirits)

Trà/cà phê đậm (strong tea/coffee)

Ðậu phộng (nuts)

Các xốt kem (cream)

Trái cây sống có lõi cứng (raw fruit with a core or stone)

Bắp cải trộn (coleslaw)

Rau trộn khoai tây (potato salad)

Trứng luộc quá chín (hard-boiled egg)

Xương giò heo băm (Eisbein - pickled knuckle of pork)

Các thức ăn béo chiên khét, xông khói, tẩm nhiều gia vị (highly seasoned, smoked, deep-fried and fatty foods)

Ðậu (pulses)

Dưa chuột chưa nấu chín (gherkin)

Bắp cải trắng (white cabbage)

Bắp cải (cabbage)

Ớt đỏ Hung - ga - ri (paprika)

Bắp cải xé tơi (pickled cabbage-Sauerkraut)

Củ hành (onions)

Bắp cải lá xoăn (savoy)

Nấm (mushrooms)

Tỏi (leek)

Tránh tất cả thức ăn mà bạn không thể dung nạp. Ðừng tin vào bất cứ sách nào. Chính bạn mới là người quyết định bạn nên ăn hoặc không nên ăn những món nào.

1.3.2 Các chỉ định điều trị tiết chế khởi đầu

Các điều trị tiết chế bắt đầu khi có các triệu chứng xơ gan mất bù.

Các triệu chứng này là:

- Diễn tiến tăng dần của báng bụng hoặc phù

- Xuất huyết do vỡ giãn tĩnh mạch thực quản

- Các triệu chứng của bệnh não do gan (giảm các chức năng não)

Các phương thức trong điều trị tiết chế là:

- Giảm protein và chọn đúng loại protein cần thiết

- Dùng các amino acids chuỗi bên có phân nhánh

- Giảm muối ăn vào

- Giảm dịch đưa vào cơ thể

- Ăn nhiều kali

- Ăn nhiều chất xơ

- Ăn nhẹ.

Mục tiêu của điều trị tiết chế là:

- Ngừa hoặc làm cải thiện bệnh lý não do gan (duy trì chức năng não) bằng cách giảm protein ăn vào.

- Cân bằng tỷ lệ các amino acids bằng cách dùng thêm các amino acids chuỗi bên có phân nhánh và giảm các amino acids có mùi thơm.

- Kiểm soát được tình trạng báng bụng và phù bằng chế độ ăn ít muối, giảm nước nhập và bù ka li.

- Bảo vệ tĩnh mạch thực quản bằng thức ăn đã được nghiền hoặc thức ăn lỏng.

1.3.3 Cung cấp năng lượng

Khoảng 70% bệnh nhân mắc bệnh gan mãn tính đã có một chế độ ăn sai lầm. Các điều tra cho thấy rằng có nhiều bệnh nhân xơ gan không được dinh dưỡng đúng mực. Và phải nhớ rằng cho dù bệnh nhân có nhẹ cân vẫn cần thiết làm tăng các mô mỡ và giảm khối lượng cơ. Bệnh nhân đạt hiệu quả là người có bụng phệ (mô mỡ và/hoặc dịch báng) và tay chân gầy (ít cơ). Dường như các bệnh nhân chỉ được chú ý cho ăn tốt. Các nguyên nhân của tình trạng dinh dưỡng kém là do bệnh nhân sợ ăn phải các thức ăn không đúng, có các chế độ ăn không phù hợp, sử dụng ít loại thực phẩm và có nhu cầu năng lượng cao. Khi có báng bụng và phù thì nhu cầu năng lượng đặc biệt tăng cao. Nếu quá cân ở mức độ nhẹ thì không cần giảm cân. Nhu cầu năng lượng có thể tính theo công thức sau:

Nhu cầu năng lượng trong khi nằm viện

Cân nặng bình thường (chiều cao tính bằng centimetres trừ đi 100) x 35

= nhu cầu năng lượng mỗi ngày (tính bằng kilocalories)

Nhu cầu năng lượng cho các hoạt động nhẹ nhàng tại nhà

Cân nặng bình thường (chiều cao tính bằng centimetres trừ đi 100) x 38

= nhu cầu năng lượng mỗi ngày (tính bằng kilocalories)

Nhu cầu năng lượng trong khi nằm viện

Cân nặng bình thường (chiều cao tính bằng centimetres trừ đi 100) x 35

= nhu cầu năng lượng mỗi ngày (tính bằng kilocalories)

Ví dụ:

Một người đàn ông cao 174cm cần 2.600 kilocalories trong bệnh viện (174-100 = 74, 74x35 = 2590 kcal).

Công thức này bao gồm các yếu tố an toàn. Công thức này cũng áp dụng cho bệnh nhân dư cân mà không có nhu cầu giảm calories. Cung cấp năng lượng cho bệnh nhân xơ gan mất bù chỉ cần các chất béo và carbohydrates. Protein chứa trong các thức ăn béo và carbohydrates phải được tính vào khẩu phần ăn. Một điểm cần chú ý là chỉ các thức ăn nhiều chất béo có nguồn gốc động vật có thể được chọn dùng trong bất kỳ trường hợp nào kém dung nạp protein. Ví du như phô mai nhiều chất béo sẽ chứa ít protein hơn là phô mai có ít chất béo. Không nên cho bệnh nhân ăn bơ.

Sự cung cấp năng lượng ngừa sự sử dụng năng lượng thường lấy từ các mô cơ thể (ví dụ mô cơ) hoặc sự tạo ra nhu cầu protein. Nếu các mô cơ thể bị phân hủy để tạo năng lượng, các bác sĩ gọi đây là tình trạng dị hóa, và có dị hóa là có sụt cân. Khi các chất nội sinh trong cơ thể bị phân hủy thì nồng độ NH3 tăng lên. Và điều này lại thúc đẩy bệnh cảnh bệnh não do gan.

Ðể cung cấp năng lượng, các thức ăn sau đây là phù hợp:

Glucose

Người ta thường vẫn nghĩ rằng glucose là chất ngọt thay thế sucrose. Glucose chỉ chứa ? lượng đường so với sucrose. Bạn có thể ăn gấp đôi để đủ năng lượng nếu bạn muốn dùng glucose thay thế cho sucrose. Có thể mua glucose (tên thương mại là "Dextroplus") ở các cửa hàng bánh kẹo hoặc nhà thuốc.

Maltodextrin 19

Maltodextrin 19 là một loại gia vị trung tính lấy được từ bột bắp. 1g Maltodextrin chứa 3.8 kilocalories. Maltodextrin được cơ thể hấp thu và sử dụng dễ dàng. Bạn có thể cho Maltodextrin vào thức ăn nóng hoặc lạnh, trong các món ăn cay hoặc ngọt. Không cho quá 10g Maltodextrin vào mỗi 100g thức ăn. Maltodextrin 19 có thể mua ở nhà thuốc.

Sonana Renamil

Sonana Renamil là nguồn cung cấp năng lượng với hàm lượng protein thấp, cũng có thể dùng cho bệnh nhân bệnh thận. Sonana Renamil có thể dùng chung với thức ăn một cách dễ dàng (ví dụ trộn vào thức uống có sữa, bánh thạch sữa, bánh bông lan, bánh cake hoặc bánh ngọt) và cung cấp 468 kcal/100g Sonana Renamil (và chỉ chứa 4.7g protein). Thành phần protein rất thuận tiện sử dụng cho bệnh nhân xơ gan. Sonana Renamil là sản phẩm của nhà máy NephroMed Bartz GmbH, H?tenberg), được bán theo toa tại nhà thuốc.

3 loại thức ăn vừa gợi ý trên đây không có ích cho bệnh nhân tiểu đường. Ðường huyết sẽ tăng rất nhanh sau khi sử dụng glucose, maltodextrin và Sonana Renamil. Những thực phẩm này chỉ nên dùng khi theo dõi cẩn thận lượng đường huyết và liểm soát được đường huyết.

Bơ, dầu thực vật

Chất béo là thức ăn giàu năng lượng nhất vì mỗi gram chất béo sẽ cung cấp 9 kilocalories. Ví dụ, để có nhiều năng lượng thì một cái bánh thạch sữa có thể được làm với kem tươi thay vì trộn với sữa. Năng lượng trong món súp và sốt có thể được làm tăng lên bằng cách trộn thêm bơ và dầu thực vật. Khoai tây nghiền với kem tươi và bơ thì quả đúng là một quả bom năng lượng. Vấn đề đặt ra là sử dụng chất béo cho các bệnh nhân đã có hàm lượng chất béo trong máu rất cao; trong trường hợp này thì không nên cho bệnh nhân dùng bơ và kem tươi. Tuy nhiên bệnh nhân bị xơ gan thì hiếm khi bị tăng cholesterol trong máu. Lượng mỡ dùng nên hạn chế khi bệnh nhân bị kém hấp thu. Trong một khẩu phần kiêng protein, cần nhấn mạnh là các thực phẩm nguồn gốc động vật là nguồn chứa protein đồng thời cũng chứa rất nhiều chất béo cung cấp năng lượng cao. Các nghiên cứu đã chỉ cho thấy rằng khẩu phần ăn có nhiều chất béo dễ làm tăng cân hoặc giữ cân hơn là khẩu phần giàu carbohydrate.

Thực phẩm nhân tạo (chế độ ăn lỏng/ăn qua ống)

Ðối với những bệnh nhân không thể ăn được thì sẽ không ăn hoặc không thể ăn đủ nhu cầu vì vậy cần có chế độ ăn lỏng đặc biệt. Những thực phẩm dinh dưỡng dạng lỏng chứa các thức ăn thiết yếu và chỉ với các chất này đã có thể là một chế độ ăn. Cần phải nhớ rằng nhiều thức ăn loại này chứa rất nhiều protein. Có 2 loại thức ăn được thiết kế để đạt yêu cầu của bệnh nhân xơ gan. Các thực phẩm này với tỷ lệ cao các acide amines chuỗi phân nhánh là nguồn protein. Ðể có thêm thông tin về các chế độ ăn lỏng, cần hỏi bác sĩ, dược sĩ hoặc chuyên viên dinh dưỡng của bạn.

Cũng có các thực phẩm tiết chế thích hợp để bù các chất bị thiếu và hơn nữa là còn có các acide amines chuỗi phân nhánh với tỷ lệ cao.

1.3.4 Protein

Protein là vấn đề quan trọng có tính then chốt trong bệnh xơ gan. Trong quá trình chuyển hóa protein có những độc chất được tạo ra mà các độc chất này không được gan khử đi vì vậy làm tổn thương não. Vi khuẩn trong ruột làm thoái hóa protein và tạo ra độc chất và độc chất được hấp thu vào cơ thể. Protein thì không được cơ thể hấp thu hoàn toàn. Những protein không được hấp thu còn thừa lại trong ruột sẽ được các vi khuẩn sẵn có trong ruột sử dụng làm chất dinh dưỡng và khi các protein này bị vi khuẩn "ăn" sẽ tạo ra độc tố rồi cơ thể lại hấp thu vào.

Protein rất cần cho sự sống trong cơ thể. Proyein chứa các acid amines (những đơn vị để tạo thành protein). Chúng ta cần protein để tạo ra và duy trì các mô cơ thể, tổng hợp các nội tiết tố và các loại men. Không thể tổng hợp được protein từ chất béo và carbohydrates. 1g protein cung cấp 4 kilocalories (kcal). Nhu cầu protein của một người khỏe mạnh là 1g protein/kg cân nặng của cơ thể. Do điều kiện kinh tế cao, lượng protein trong bữa ăn tại CHLB Ðức vượt xa nhu cầu này.

Tham khảo bảng qui chiếu protein trong phần phụ lục để biết được hàm lượng protein có trong từng loại thực phẩm.

1.3.4.1 40 grams protein được tiêu thụ nhanh chóng

Bảng qui chiếu protein (phần phụ lục) cho biết 40, 60 và 80g protein được tiêu thụ một cách nhanh chóng. Ngay cả trong một khẩu phần ăn chay cũng có ít nhất là 30g protein. Khi bạn được hướng dẫn lượng protein ăn vào chỉ nên dưới 40g thì trong khẩu phần ăn của bạn phải tính đến cả các thức ăn có hàm lượng protein thấp trong khẩu phần như là bánh mì, bánh nướng, bánh cake hoặc nuôi. Nếu bạn ăn những thức ăn làm từ động vật hoặc các thức ăn làm bằng thực vật thì bạn sẽ có lượng protein ăn vào đạt đến 100 - 120g rất nhanh chóng.

Một phân tích chi tiết các chất dinh dinh dưỡng và năng lượng của mỗi 100g thức ăn được ghi trên nhãn của các gói thực phẩm. Ngoài các chi tiết về giá trị năng lượng, chất béo, carbohydrates, cũng có ghi giá trị protein trong bảng phân tích. Các thực phẩm tiết thực luôn luôn có bảng phân tích này. Bảng liệt kê các thành phần thực phẩm xếp theo thứ tự cân nặng giảm dần cũng có ghi trên tất cả các gói thực phẩm. Do vậy bạn có thể dễ dàng biết được trong thực phẩm đó thành phần nào nhiều nhất và thành phần nào là ít nhất. Có nhiều loại thực phẩm chứ ít protein có thể được đặt mua bằng thư điện tử trong các cửa hàng bán thực phẩm dinh dưỡng hoặc nhà thuốc. Bác sĩ và chuyên gia dinh dưỡng của bạn sẽ giải thích cho bạn về nguồn cung cấp cách sử dụng.

1.3.4.2 Tại sao các độc chất được tạo ra và bằng cách nào?

Các độc chất (như là NH3, phenols, indoles, mercaptans và amines) xuất hiện trong ruột là do sự phân hủy protein của vi khuẩn và các độc chất này được hấp thu vào máu. Quá trình khử độc của gan mạnh khỏe thì không khó khăn. Khi quá trình khử độc của gan bị rối loạn, các độc chất này sẽ gây ra bệnh não do gan (tri giác u ám do nảo bị tổn thương). Ðể ngừa sự gia tăng NH3 và các độc chất khác, và làm giảm các rối loạn tri giác thì cần có khẩu phần ăn ít protein. Một cách khái quát là sẽ bắt đầu với khẩu phần có 40g protein mỗi ngày và có thể thữ tăng dần đến 60g mỗi ngày. Tuy nhiên sự kiêng khem này chỉ cần thiết khi mà bệnh nhân bị xơ gan mất bù.

1.3.4.3 Dinh dưỡng bằng đường truyền khi bệnh nhân bị hôn mê.

Bệnh nhân đã hôn mê do các độc chất gia tăng quá nhiều trong máu nên được nuôi dưỡng bằng đường truyền để truyền thẳng chất dinh dưỡng vào máu. Việc cung cấp các acid amines phải được kiểm soát phù hợp với chức năng gan. Nhu cầu năng lượng chủ yếu là các chất béo và carbohydrates. Năng lượng phải được cung cấp đầy đủ để ngăn ngừa các thoái hóa protein trong cơ thể. Carbohydrates được truyền là glucose. Các vitamins và các khoáng chất cũng được cung cấp qua đường truyền.

Khi các triệu chừng đã ổn, có thể cho bệnh nhân ăn trở lại. Lượng protein khi bắt đầu ăn lại không nên quá 25 - 30g và tăng thêm 10g trong mỗi 3-4 ngày. Sự dung nạp protein xảy ra tùy từng người, tuy nhiên về lâu về dài thì lượng protein ăn vào nên trong khoảng 40 - 60g và lượng này tùy vào việc đánh giá các triệu chứng, khám chữ viết, khám thần kinh và đo NH3.

1.3.4.4 Protein dung nạp tốt và protein kém dung nạp

Các nghiên cứu cho thấy rằng các proteins có các tác động khác nhau trên chức năng não bộ. Protein có hại nhất được tìm thấy trong máu. Chảy máu do vỡ giãn tĩnh mạch thực quản sẽ làm mất máu nặng. Các thành phần của máu (hình trang 32) được hấp thu vào ruột non. Các độc chất tạo ra do quá trình vi khuẩn tiêu hóa protein được hấp thu tại ruột già. Chảy máu do vỡ giãn tĩnh mạch thực quản thường xảy ra sau khi độc chất trong máu gia tăng. Thịt, cá và trứng cũng có chứa các protein có hại. Các rau củ là nguồn protein ít có tác dụng độc hơn và vì vậy dung nạp tốt hơn.

Việc lựa chọn các acid amin thích hợp là quan trọng. Trong máu các bệnh nhân xơ gan thường bị thiếu các acid amin chuỗi phân nhánh và thừa acid amin thơm. Các thực phẩm có tỷ lệ cao các acid amin chuỗi phân nhánh gồm có sữa và các chế phẩm của sữa và các thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật. Thịt và cá chứa một tỷ lệ cao các acid amin thơm. Các acid amin chuỗi phân nhánh (valine, leucine, isoleucine) ngừa bệnh lý não do gan, còn các acid amin thơm (tyrosine, phenylalanine) và methionine thì ngược lại. Các acid amin chuỗi phân nhánh được chuyển hóa ngoài gan và không làm gia tăng nồng độ các độc chất khi chúng bị chuyển hóa. Các acid amin chuỗi phân nhánh ngăn ngừa sự thoái hóa protein ở cơ. Khi có sự cạnh tranh để vận chuyển xuyên qua hàng rào máu não do hiệu quả âm tính của các acid amin thơm mà chúng sẽ được đưa vào não ở một lượng tăng cao. Trong não các acid amin này sẽ ức chế chức năng của não. Các chất này là những chất vận chuyển thần kinh giả. Tỷ lệ acid amin chuỗi phân nhánh (valine, leucine, isoleucine) / acid amin thơm (tyrosine, phenylalanine) được gọi là chỉ số Fischer. Ở người khỏe mạnh là 3 (acid amin chuỗi phân nhánh nhiều gấp 3 lần acid amin thơm trong máu). Ở những bệnh nhân bị xơ gan tỷ lệ này vào khoảng 1 - 2. Ðộ hôn mê và độ trầm trọng của bệnh lý não do gan liên quan chặt chẽ với tỷ số này.

Ðể gia tăng một cách đáng kể lượng acid amin chuỗi phân nhánh trong khẩu phần ăn là một việc khó khăn.

Hiệu quả dương tính này có thể đạt được bằng cách sử dụng các chế phẩm protein đặc biệt (hỗn hợp acid amin) chứa một tỷ lệ cao các acid amin chuỗi phân nhánh. Các chế phẩm này cũng được bổ sung vào khẩu phần ăn bình thường ít protein. Các chất keto tương tự như acid amin chuỗi phân nhánh có tác dụng tương tự như các acid amin này. Với một chế độ ăn kiêng protein ít hơn 60 g thì có mối nguy hiểm là các protein riêng biệt của cơ thể sẽ bị thoái hoá. Nếu xảy ra như vậy không nên cho bệnh nhân tiếp tục ăn kiêng protein. Nhu cầu protein của những bệnh nhân xơ gan trong tình huống này bằng với người bình thường. Khi sự cung cấp protein trong khẩu phần ăn không thích hợp hơn nữa các hỗn hợp các acid amin chuỗi phân nhánh dung nạp tốt cung cấp protein và năng lượng. Cũng đừng ngạc nhiên khi bạn được khuyên một bên là ăn khẩu phần có ít protein và một ben là ăn protein đậm đặc. Không phải tất cả các bệnh nhân đều giống nhau. Các thực phẩm tiết thực và thuốc với hàm lượng cao acid amin chuỗi phân nhánh được kê toa.

Hãy hỏi Bác sĩ hoặc Dược sĩ của bạn về các thức ăn tiết chế hoặc các loại thuốc có nồng độ cao các acid amin chuỗi phân nhánh.

1.3.4.5 Sự phức tạp của sử dụng protein ở bệnh nhân xơ gan

Tương tự như người khỏe mạnh các bệnh nhân xơ gan cũng cần protein. Khi cơ thể chuyển hóa protein các độc chất sẽ được tạo thành. Vì vậy lượng protein phải được hạn chế. Và hiệu quả là bệnh nhân sẽ bị thiếu protein. Sau đó cơ thể sẽ cố gắng khắc phục bằng cách phân hủy các protein dự trữ (ở cơ). Vì vậy càng nhiều độc chất được tạo ra và làm tổn thương não. Các bệnh nhân xơ gan phải được cung cấp đầy đủ các protein tự nhiên để tránh sự thúc đẩy bệnh lý não do gan xảy ra. Hỗn hợp acid amin được sữ dụng để thỏa nhu cầu protein.

Vì gan hoạt động kém nhu cầu protein trở nên cao hơn. Chỉ cần cung cấp 1.2g protein cho mỗi kg cân nặng cơ thể thì cân bằng protein sẽ trở nên bình thường. Nhưng vấn đề phức tạp là lượng protein này quá nhiều đối với gan và dễ thúc đẩy cho bệnh lý não do gan. Tuy nhiên để đạt được nhu cầu protein một hiệu số đã được tính toán bằng cách cung cấp protein căn cứ theo acid amin chuỗi phân nhánh.

Ví dụ:

Bệnh nhân cân nặng 71kg

Nhu cầu protein (71 x 1.2) = 85.2 g

Lượng Protein dung nạp = 0.8 g /kg (71 x 0.8) = 56.8 g

Hiệu số = 28.4 g

Như vậy cần khoảng 30g acid amin chuỗi phân nhánh.

Khi cần một chế độ ăn gần như bắt buộc kiêng protein (<40g) thì sử dụng các thức ăn có hàm lượng protein thấp là rất có ích cho người bệnh. Biết rằng 2 lát bánh mì "thường" dùng điểm tâm và 2 lát dùng vào buổi cơm chiều là đã có 15g protein. 4 lát bánh mì có hàm lượng protein thấp chỉ chứa 2-4g protein. Các thức ăn có hàm lương protein thấp có thể mua được tại các cửa hàng dinh dưỡng. Hãy báo cho trung tâm thông tin về tiết chế của bạn biết nếu bạn muốn tìm mua các loại thực phẩm chứa ít protein.

1.3.5 Carbohydrates

Carbohydrates là nguồn năng lượng chính của cơ thể. 1g carbohydrates cung cấp 4 kilocalories (kcal). Các thực phẩm chứa nhiều carbohydrates gồm có: đường, các loại kẹo, bánh mì, các thức ăn làm bằng bột, khoai tây, sữa và rau.

1.3.5.1 Chất xơ làm giảm lượng độc chất

Các chất xơ không tiêu hóa được cũng được xếp vào nhóm carbohydrates. Các chất xơ trong các loại thức ăn rau, củ không được hấp thu vào cơ thể. Các chất xơ làm dễ dàng hơn cho quá trình tiêu hóa, làm đường huyết tăng chậm hơn, làm giảm lượng cholesterol và làm giảm cảm gíác chán ăn. Ðối với các bệnh nhân xơ gan thì chất xơ rất quan trọng vì gắn kết lượng với độc chất có trong ruột của bệnh nhân. Làm cho thời gian thức ăn đi ngang qua đoạn ruột non ngắn hơn do vậy giảm được lượng độc chất sinh ra đến mức thấp nhất. Các thức ăn đã được tiêu hóa di chuyển nhanh hơn trong ống tiêu hóa cũng làm cho sự tạo thành độc chất và hấp thu chúng giảm đến tố thiểu. Do vậy nguy cơ bị bệnh lý não do gan cũng giảm đi. Một khẩu phần ăn nhiều chất xơ cũng có các tác dụng phụ (đầy bụng, đau bụng). Cơ thể sẽ tự thích nghi dần với chế độ ăn nhiều chất xơ. Nhưng phải cung cấp đủ lượng nước nhập cho bệnh nhân vì chất xơ sẽ nở ra. Nếu bệnh nhân cũng phải hạn chế lượng nước nhập thì khẩu phần ăn nhiều chất xơ là không thể thực hiện được. Trong trường hợp này, cũng không thể dùng các chất xơ đậm đặc (như các sản phẩm từ cám gạo, cám lúa mạch, pectin đậm đặc). Các thức ăn chứa nhiều chất xơ gồm: bánh mì thô, bánh mì tươi, trái cây, rau củ, khoai tây, gạo lức, nuôi thô hoặc cám).

1.3.5.2 Sử dụng lactulose cho bệnh nhân xơ gan

Lactulose là một disaccharide nhân tạo được tạo thành từ fructose (đường trái cây) và galactose. Cơ thể người không thể phân hủy đường lactulose vì thiếu men tiêu hóa cần thiết. Do đó lactulose nguyên vẹn đến ruột già và bị phân hủy thành acid acetic và acid lactic bởi vi khuẩn đây. Môi trường trong ruột già bị acid hoá do đó làm thay đổi các vi khuẩn thường trú tại ruột. Quá trình tiêu hóa protein do vi khuẩn tại ruột giảm đi. Sự sản sinh và hấp thu ammonia và các chất độc khác từ ruột bị ức chế. Mức độ chất độc trong co thể người bệnh giảm và do đó giảm các triệu chứng nhiễm độc. Thời gian vận chuyển phân trong lòng ruột giảm. Nhờ đó sự hấp thu các chất độc được tạo thành từ ruột cũng giảm đi. Các tác dụng phụ khi sử dụng lactulose như sình bụng và tiêu chảy thường nhanh chóng biến mất sau một thời gian ngắn thích nghi.

Lactulose là một môi

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net

#gan