DD cho xo gan

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

THÔNG TIN VỀ CHẾ ÐỘ DINH DƯỠNG DÀNH CHO BỆNH NHÂN BỆNH GAN

1.Gan

Gan nặng khoảng 1.5kg và ở nửa bên phải của vùng bụng trên. Ở thùy gan phải có một hõm nhỏ chứa túi mật. Túi mật là "túi chứa" dịch mật do gan tiết ra. Dịch mật rất quan trọng trong sự tiêu hóa các thức ăn béo. Gan chứa hàng tỉ các tế bào gan hoạt động.

Một lượng lớn dòng máu từ tim bơm đi được hệ tuần hoàn đưa đến gan để gan thực hiện chức năng chuyển hóa. Các nghiên cứu đã cho thấy rằng mỗi phút có khoảng 1-1.5 lít máu được vận chuyển đến gan qua hệ thống tĩnh mạch cửa. Máu giàu oxy được động mạch gan đưa đến gan và đồng thời hệ thống tĩnh mạch cửa mang máu giàu chất dinh dưỡng đến gan. Máu trong tĩnh mạch cửa đã chảy qua ống tiêu hóa và lấy được rất nhiều chất dinh dưỡng. Trong các tế bào gan các chất dinh dưỡng (carbohydrate, protein và chất béo) tiếp tục được chuyển hóa.

1.1 Các chức năng của gan

Gan là cơ quan chính đảm nhiệm chức năng chuyển hóa trong cơ thể. Gan tạo ra các đơn vị xây dựng protein (amino acid), các proteins, dịch mật, cholesterol và chất béo. Các chức năng khác có thể kể đến là dự trữ chất dinh dưỡng và khử độc cho cơ thể. Gan là nơi cất giữ các carbohydrates và các vitamins cũng như chuyển hóa các chất dinh dưỡng hấp thu được từ thức ăn.

1.1.1 Proteins

Trong cơ thể, proteins là chất liệu xây dựng các loại mô, các nội tiết tố, vách của tất cả các loại tế bào. Protein có nghĩa là "hàng đầu" hoặc "quan trọng nhất". Ðiều này nhấn mạnh tầm quan trọng của proteins. Không có protein thì không có cuộc sống. Cơ thể không thể tồn tại mà không cần đến các amino acids. 1 gram protein cung cấp 4 kilocalories (4 kcal) cho cơ thể.

Thức ăn có nhiều protein

Thịt, xúc xích, thịt gia cầm, cá, trứng, sữa và các thức ăn chế biến từ sữa.

Thức ăn có ít hoặc không có protein

Trái cây, rau, đường, dầu, tinh bột, bơ, bơ thực vật.

Tại ruột non, proteins trong thức ăn bị "bẽ gãy" ra thành các mảnh nhỏ nhất gọi là amino acids và sau đó các mảnh này được đưa đến gan. Gan sẽ tổng hợp các amino acids này thành các proteins chuyên biệt của cơ thể. Proteins không dự trữ tại gan. Thông thường thì proteins được dùng để tạo ra các chất của cơ thể (ví dụ, nội tiết tố, albumin) và chỉ dùng để tạo năng lượng khi có tình trạng khẩn cấp (chuyển hóa khi bị đói).

1.1.2 Carbohydrates

Chức năng chính của carbohydrates là tiếp tế và cung cấp năng lượng cho cơ thể. Nếu tính theo số lượng thì carbohydrates là chất dinh dưỡng quan trọng nhất của cơ thể người. Các chất xơ không được cơ thể tiêu hóa cũng xếp vào nhóm carbohydrates. 1 gram carbohydrates cung cấp 4 kilocalories (4 kcal) cho cơ thể.

Thức ăn có nhiều carbohydrates

Ðường, đồ ngọt, bánh mì, bột, tinh bột, trái cây, sữa, rau.

Thức ăn có ít hoặc không có carbohydrates

Bơ, bơ thực vật, dầu, thịt, cá, thịt gia cầm, trứng, xúc xích và phô mai.

Carbohydrates trong thức ăn bị "bẽ gãy" ra thành các loại đường (các đường đơn: glucose [đường lấy từ trái nho], galactose và fructose [đường trái cây]), được hấp thu vào máu rồi đưa đến gan. Glycogen carbohydrates dự trữ là những carbohydrates được tích trữ tại gan và tại bắp cơ. Chức năng của glycogen như là một năng lượng dự trữ dành để sử dụng trong một thời gian ngắn. Các carbohydrates còn lại ở trong chất đường của máu và là nguồn năng lượng cho các tế bào. Nếu lượng carbohydrates hấp thu vào nhiều hơn nhu cầu của cơ thể thì sẽ được chuyển thành các chất béo và dự trữ tại mô mỡ.

1.1.3 Chất béo

Các chất béo chủ yếu cung cấp cho cơ thể nguồn năng lượng cao, là nguồn dự trữ năng lượng và là thành phần của các vách của tế bào. Cơ thể chúng ta cũng cần chất béo để hấp thu các vitamins hoà tan trong mỡ (vitamin A, D, E và K). Khi bị rối loạn chuyển hoa mỡ (ví dụ: tăng cholesterol) cần hạn chế tổng lượng chất béo ăn vào. Hơn nữa nên sử dụng các loại chất béo chất lượng cao (như các loại bơ thực vật ăn kiêng, bơ hoa hướng dương, lúa mạch, thistle, hoa hướng dương, dầu olive hoặc dầu đậu nành). Chất béo từ cá cũng có tác dụng "giảm mỡ trong máu". 1 gram chất béo tạo ra 9 kilocalories (kcal).

Thức ăn có nhiều chất béo

Dầu, mỡ, bơ động vật, bơ thực vật, sốt mayonnaise, xúc xích, phô mai, thịt, kem, bánh ngọt.

Thức ăn có ít hoặc không có chất béo

Trái cây, thực vật, bột, bánh mì, đường.

Chất béo và các cholesterol được hấp thu tại ruột non, và vận chuyển theo hệ bạch huyết đến gan. Các thành phần của chất béo (acid béo và glycerol) chuyển hóa tại gan rồi chuyển đến các cơ và là một nguồn năng lượng hoạt động của cơ. Lượng chất béo dư thừa được tích trữ trong các mô mỡ. Gan giúp cho quá trình tiêu hóa và hấp thu chất béo từ ruột non bằng cách tiết ra dịch mật.

1.1.4 Vitamins

Có 2 nhóm vitamin: tan trong mỡ và tan trong nước. Các vitamin tan trong mỡ A, D, E và K dự trữ trong gan. Gan cũng liên quan tới quá trình chuyển hoá các vitamin nhóm B và vitamin K. Các muối khoáng như sắt cũng dự trữ tại gan.

1.1.5 "Phòng xử lý chất độc" của cơ thể

Cùng với thận, gan là cơ quan khử độc của cơ thể. Các chất độc được cơ thể tạo ra trong quá trình chuyển hóa hoặc được đưa từ bên ngoài vào cơ thể (thuốc, các chất độc hại và rượu) đều được khử độc tại gan.

1.2 Xơ gan

Có trên 2 triệu người Ðức bị bệnh gan mãn tính và khoảng 800.000 người Ðức bị xơ gan.

Xơ gan là tình trạng tế bào gan hoạt động chuyển hoá bị phá hủy. Tại các tế bào bị hủy hoại có sự phát triển của các mô liên kết không hoạt tính. Các mô liên kết không có khả năng thực hiện các chức năng của tế bào gan.

Khi đến giai đoạn xơ gan, tổn thương gan là không hồi phục. Có một số lớn các chất được gọi là "chất bảo vệ gan" nhưng cho đến hiện tại, không có bằng chứng nào về việc có thể điều trị cải thiện chức năng hoặc trị khỏi xơ gan. Tuy nhiên hiệu quả tốt của phương pháp điều trị bằng chế độ ăn đã được xác nhận.

Các nguyên nhân gây phá hủy tế bào gan do tiến trình viêm mãn tính:

- Các virus và ký sinh trùng

- Các chất độc (đặc biệt là rượu) và sử dụng thuốc không đúng

- Viêm đường mật mãn tính

- Các rối loạn chuyển hóa hiếm gặp

Có một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân xơ gan không tìm ra nguyên nhân.

Có 2 mức độ xơ gan cần được phân biệt:

1. Dạng xơ gan còn bù: gan còn khả năng khử độc cho cơ thể, không có dịch báng và bệnh lý não do gan. Chẩn đoán dựa trên mô học (sinh thiết mô gan).

2. Dạng xơ gan mất bù: đặc trưng bởi vàng da, thiếu các yếu tố đông máu, báng bụng, phù, sụt cân, nghẽn tĩnh mạch cửa, xuất huyết do vỡ phình tĩnh mạch thực quản, bệnh lý não do gan và các rối loạn các xét nghiệm chức năng trong cơ thể bệnh nhân.

1.2.1 Rượu là một nguyên nhân gây xơ gan

Nguyên nhân thường găp nhất của xơ gan là rượu. Tất cả những người uống rượu nhiều và thường xuyên đều có nguy cơ bị xơ gan. Tuy nhiên cần nhớ rằng không phải mọi trường hợp xơ gan đều do rượu. Thời gian uống rượu càng lâu khả năng tổn thương tế bào gan và phát triển thành xơ gan càng cao. Nguy cơ tổn thương gan do rượu ở phụ nữ cao hơn so với nam giới.

Ðối với nam giới: uống mỗi ngày 60g rượu (1.5 lít bia, 0.6L rượu vang, hoặc 120g rum) trong thời gian dài sẽ gây tổn thương gan.

Ðối với nữ giới: uống mỗi ngày 20-40g rượu (0.5 - 0.75 lít bia, 0.2 - 0.3 L rượu vang đỏ) trong thời gian dài sẽ gây tổn thương gan.

Rượu cung cấp 7 kcal / gram

Thành phần rượu trong 100 mL các loại thức uống như sau:

Malt beer

0.6 - 1.5 g

Rượu nhẹ (light wine)

5.5 - 7.5 g

Small beer

1.5 - 2.0 g

Rượu trung bình (medium wine)

7.5 - 9.0 g

Whole beer

3.5 - 4.5 g

Rượu nặng (strong wine)

9.0 - 11.0 g

Strong beer

4.8 - 5.5 g

Rượu cực mạnh (Fortified wine)

11.0 - 13.0 g

Nước uống không chứa alcohol

- 0.5 g

Sparkling wine

7.0 - 10.0 g

Liqueur

20.0 - 35.0 g

Spirits

32.0 - 50.0 g

Rum

40.0 - 70.0 g

Ngay khi triệu chứng đầu tiên của tổn thương gan hoặc xơ gan xuất hiện, cần phải ngưng uống tuyệt đối mọi loại rượu. Các loại thức uống được gọi là không có rượu ("bia không chứa rượu") cũng không được uống. Cần chú ý có một số thức ăn cũng chứa rượu (brandy beans). Khi nhận toa thuốc mới từ bác sĩ cần cho bác sĩ biết mình đang bị xơ gan. Có nhiều loại thuốc có chứa rượu.

Lượng rượu uống trung bình hàng ngày của một người tại Cộng Hòa Liên Bang Ðức là 30grams. Từ sau khi nước Ðức thống nhất, người Ðức trở nên đứng đầu thế giới trong việc uống rượu. Có khoảng 20.000 người chết do xơ gan tại Ðức. Xơ gan là căn bệnh đứng hàng thứ năm gây tử vong tại Ðức.

1.2.2 Các loại xơ gan đặc biệt - Xơ gan mật nguyên phát

Xơ gan mật nguyên phát là một bệnh gan tiến triển mãn tính. Ðây là một loại bệnh hiếm gặp và thường xảy ra ở phụ nữ. Chưa rõ nguyên nhân, có lẽ là bệnh tự miễn. Acid ursodeoxycholic, là một loại acid mật tự nhiên có một tỷ lệ nhỏ trong dịch mật của người, là điều trị duy nhất được chấp nhận hiện nay. Báng bụng, giãn tĩnh mạch thực quản hoặc bệnh não do gan là các biến chứng của xơ gan mật nguyên phát. Người ta cũng đưa ra cách điều trị bằng chế độ ăn cho bệnh xơ gan. Những bệnh nhân xơ gan bị ngứa rất nhiều và triệu chứng này thường khỏi khi được điều trị bằng các thuốc làm thoát dịch mật xuống ruột. Việc tiêu hóa và hấp thu các chất béo trong chế độ ăn bình thường không thể thực hiện được nếu không có mật, nhiều bệnh nhân cần "chế độ ăn có MCT" . MCT có nghĩa là triglycerides chuỗi trung bình (medium-chain triglycerides). Nếu bệnh nhân không được dùng "chế độ ăn có MCT" thì không thể hấp thu được các chất béo đã được tiêu hóa. Hậu quả là bị thiếu năng lượng và đi cầu phân mỡ. Hấp thu các chất béo MCT không cần phải có các acid mật. Có thể dùng chất béo MCT dạng bơ thực vật (Ceres MCT diet margarine) và dạng dầu ăn (Ceres MCT diet edible oil) sản phẩm của các nhà máy thực phẩm của Cộng hòa Liên bang Ðức (tra phần phụ lục để biết địa chỉ của các nhà máy này).

Thông thường thì cần dùng thêm các vitamins tan trong mỡ (A, D, E, K). Nếu có bị loãng xương thì bổ sung thêm vitamin D và can - xi.

1.2.3 Tiểu đường trên bệnh nhân xơ gan

Gần nửa số bệnh nhân có kèm thêm bệnh tiểu đường. Ðối với bệnh nhân tiểu đường phải đặc biệt lưu ý số lượng carbohydrates trong khẩu phần và tuân thủ nghiêm chỉnh chế độ ăn. Nhóm bệnh nhân này cần được các chuyên gia tiết chế tư vấn. Bệnh nhân tiểu đường cần tham khảo bảng đối chiếu giữa carbohydrates và các chất dinh dưỡng có năng lượng tương đương. Bệnh nhân có thể nhận bảng đối chiếu này của Công ty VFED đã được đăng ký bản quyền. Ðối với bệnh nhân vừa bị xơ gan và tiểu đường thì chất xơ trong chế độ ăn quan trọng gấp 2 lần hơn so với bệnh nhân chỉ bị xơ gan. Chất xơ sẽ làm chậm sự gia tăng đường huyết sau khi ăn nhiều carbohydrates. Trong bất kỳ trường hợp nào thì bệnh nhân xơ gan kèm tiểu đường cũng nên được tham vấn cẩn thận về chế độ ăn.

1.2.4 Triệu chứng của xơ gan

Triệu chứng bệnh xơ gan thay đổi tùy theo giai đoạn bệnh. Tổn thương đến 80% tế bào gan thì gan vẫn còn khả năng bù trừ và giữ nguyên các chức năng. Trong giai đoạn đầu, các triệu chứng thường là do phản ứng viêm tại gan. Sự tăng tạo các mô liên kết làm giảm chức năng của gan. Dòng máu qua gan bị cản trở do đó làm áp lực máu trong hệ tĩnh mạch cửa tăng lên. Gia tăng áp lực máu trong hệ tĩnh mạch cửa gây ra rối loạn chức năng ruột (sình bụng) và có thể gây ra báng bụng do thoát dịch từ lòng mạch vào trong ổ bụng.

Trong giai đoạn xơ gan tiến triển, nồng độ protein máu (albumin) giảm xuống. Và các tuần hoàn nối tắt (tuần hoàn bàng hệ) xuất hiện là hậu quả của gia tăng trở lực đối với dòng máu qua gan. Các tuần hoàn bàng hệ thường được tạo ra quanh dạ dày và thực quản (gọi là giãn tĩnh mạch thực quản). Các mạch máu tại đây dãn rộng và dễ bị chảy máu.

Nếu số lượng tế bào gan bị hủy hoại tăng thêm nữa thì tình trạng xuất huyết có thể xảy ra thường xuyên hơn do giảm tổng hợp các yếu tố đông máu. Và các xuất huyết này khó cầm được. Giảm số lượng tế bào gan có chức năng cũng làm tăng các độc chất trong cơ thể. Và do có các tuần hoàn nối tắt mà các độc chất này có thể lên não gây tổn thương não. Hậu quả là bệnh nhân bị bệnh lý não do gan. Các chuyên gia ước đoán rằng có khoảng nửa số bệnh nhân xơ gan sẽ diễn tiến đến bệnh cảnh bệnh lý não do gan (vào khoảng 300.000 - 400.000 / 800.000 bệnh nhân xơ gan). Khi nồng độ các độc chất tăng hơn nữa thì sẽ xảy ra hôn mê gan. Và diễn tiến nặng hơn nữa, tỷ lệ các acid amin trong máu thay đổi và làm rối loạn chức năng não.

1.2.4.1 Báng bụng

Báng bụng là tình trạng tăng tích tụ dịch trong các khoang tự do của ổ bụng. Dòng máu qua gan bị cản trở do tăng tạo mô liên kết của các tế bào gan. Quá trình này làm tăng áp lực tĩnh mạch cửa và dẫn đến thoát dịch vào ổ bụng. Dịch báng gia tăng còn do sự mất cân đối protein (giảm albumin). Hậu quả của thiếu protein là dịch trong lòng mạch dễ thoát vào ổ bụng hơn nữa. Vì albumin là protein do gan tạo thành do đó nhiều bệnh nhân được truyền albumin người để bù lại sự thiếu hụt albumin. Rối loạn cân bằng các chất khoáng và hormone càng làm nặng thêm tình trạng báng bụng.

1.2.4.2 Kém dung nạp

Gan to ra, các cấu trúc trong gan thay đổi và áp lực tĩnh mạch cửa tăng lên gây ảnh hưởng lên chức năng tiêu hóa của ruột. Hậu quả là kém dung nạp thức ăn và các triệu chứng chuyên biệt sau đây có thể xảy ra:

- Cảm giác đầy hơi

- Ăn không ngon

- Ðau bụng

- Trướng bụng

Kém dung nạp thức ăn thay đổi tùy từng người. Thực hiện bảng tường trình chế độ ăn và tuân theo một chế độ ăn nhẹ bình thường đã được chứng minh rằng có giá trị đối với việc nhận ra được các thức ăn bị kém dung nạp.

1.2.4.3 Giãn tĩnh mạch thực quản

Dễ thấy rằng dòng máu chảy qua khối gan bị xơ hóa sẽ khó hơn là chảy qua gan bình thường. Dòng máu từ gan chảy qua tĩnh mạch cửa, đến tĩnh mạch gan rồi đổ vào tĩnh mạch chủ dưới vì vậy cần có tuần hoàn nối tắt để giảm áp lực trong các tĩnh mạch. Gan sẽ nối tắt vào các tuần hoàn bên cạnh. Các tuần hoàn bàng hệ này tạo ra các mạch máu có thành mạch mỏng hay nói cách khác là chỉ chuyển tải được một lượng nhỏ máu. Các mạch máu này thường dễ bị căng trướng và vỡ ra. Các tuần hoàn bàng hệ thường được thành lập quanh dạ dày và thực quản, được gọi là giãn tĩnh mạch thực quản. Các mạch máu tại vị trí giãn tĩnh mạch thực quản dễ vỡ ra và có thể đưa đến xuất huyết nặng gây nguy hiểm. Hấp thu một lượng quá nhiều protein trong thức ăn cũng có thể làm cho áp lực trong hệ thống tĩnh mạch cửa tăng lên và tạo điều kiện cho xuất huyết từ tĩnh mạch bị giãn. Ðiều trị bằng các thuốc ức chế be ta làm giảm áp lực mạch máu và có thể dự phòng được xuất huyết. Ðiều trị chảy máu cấp do vỡ giãn tĩnh mạch thực quản còn có biện pháp chích xơ. Và cứu cánh sau cùng là phẫu thuật tạo nối tắt ( tạo shunt - tạo đường nối tắt giữa các mạch máu), ví dụ như nối cửa - chủ (nối tịnh mạch cửa vào tĩnh mạch chủ và không qua gan) hoặc tạo shunt tĩnh mạch cửa trong gan - tĩnh mạch cảnh. Tuy nhiên trong hiệu quả làm giảm nguy cơ chảy máu lại gia tăng nguy cơ gây bệnh lý não do gan. Dòng máu từ ruột không đi qua gan sẽ bị giảm đi việc khử các độc chất, vì vậy các độc chất này có thể lên não được. Và điều này thúc đẩy bệnh lý não do gan xảy ra.

Áp lực trong tĩnh mạch thực quản sẽ tăng lên sau một bữa ăn "đầy ắp". Do vậy chia một bữa ăn nhiều thành 6 bữa ăn nhỏ hơn sẽ tốt hơn cho bệnh nhân bị giãn tĩnh mạch thực quản.

1.2.4.4 Các yếu tố đông máu

Xơ gan tiến triển làm giảm tổng hợp các yếu tố đông máu, làm tăng nguy cơ xuất huyết.

1.2.4.5 Thay đổi chuyển hóa protein

Các tế bào gan bình thường bị hủy hoại làm giảm tổng hợp protein. Hậu quả đưa đến tăng tích nước trong mô (vì protein làm đẩy nước vào máu tuần hoàn). Bệnh nhân xơ gan thường bị giảm albumin. Việc khử các độc chất được tạo thành trong quá trình chuyển hóa protein và các độc chất khác bị giảm sút.

1.2.4.6 Hoạt động khử độc của gan

Nồng độ NH3 trong máu tăng lên do gan giảm hoạt động khử độc. Ðo nồng độ NH3 trong máu bệnh nhân xơ gan để đánh giá lượng NH3 không bị khử. Gan khỏe mạnh sẽ dễ dàng chuyển hóa các NH3 có độc tính thành urea và thải ra ngoài qua đường thận. Ở bệnh nhân xơ gan tiến triển, nồng độ trong máu của các sản phẩm phân hủy tại ruột có độc tính (NH3, phenols, indoles và amines) cũng tăng lên. Các chất này được tạo thành trong ruột khi protein được các vi khuẩn phân hủy. Gan khỏe mạnh sẽ khử tốt các độc chất này. Khi gan bị xơ thì do có các tuần hoàn bàng hệ mà các độc chất này được đưa vào máu tuần hoàn và không bị gan khử độc, do đó nồng độ các độc chất này trong máu sẽ gia tăng lên. Và khi nồng độ của các độc chất trong máu đạt đến một mức nhất định thì chức năng não sẽ bị ảnh hưởng. Khởi đầu, bệnh nhân bị run tay (dấu run vẫy), thay đổi mức độ tỉnh táo, rối loạn sự phối hợp vận động, bệnh nhân sẽ bị mệt và phản ứng chậm đi. Bệnh nhân thường không đủ khả năng điều khiển xe. Mức độ nhiễm độc chất không được khử có thể dễ nhận biết mỗi ngày bằng cách đánh giá nét chữ viết tay. Khi não có biểu hiện nhiễm độc gọi là bệnh lý não do gan. Và chất độc không được khử càng nhiều sẽ dẫn đến hôn mê gan.

Nồng độ bình thường của NH3 trong máu:

1-55μmol/L hoặc 20-94μg/dL (μ = micro)

1.3 Chế độ ăn cho bệnh nhân xơ gan

Tầm quan trọng của chế độ ăn cho bệnh nhân xơ gan vẫn chưa được nhận thức đúng đắn. Một chế độ ăn mà "gan chấp nhận được" cũng cần như là uống thuốc vậy. Có nhiều bệnh nhân ra viện mà vẫn không được tư vấn ban đầu nào của chuyên viên dinh dưỡng. Hướng dẫn cho từng bệnh nhân chế độ ăn mà bệnh nhân có thể hiểu được là rất cần thiết vì nếu không bệnh nhân sẽ không biết được một chế độ ăn đúng đắn.

Trong thời gian mà gan còn thực hiện được các chức năng (xơ gan còn bù) thì không cần theo một chế độ ăn điều trị tuy nhiên cũng cần có một chế độ ăn hợp lý và tuyệt đối không uống rượu.

Ðối với bệnh nhân xơ gan, các chế độ ăn điều trị chuyên biệt chỉ cần khi bệnh nhân có các biểu hiện của bệnh lý não do gan và khi có báng bụng. Trước khi cần chế độ ăn điều trị thì phải thực hiện chế độ ăn nhẹ bình thường (tránh các loại thức ăn và các cách chế biến làm bệnh nhân khó dung nạp) và tuyệt đối cữ rượu.

Hàm lượng protein trong thức ăn không được nhiều quá. Không nên ă? quá nhiều protein, ví dụ ăn nhiều sữa đặc là không nên. Trước kia, bệnh nhân xơ gan thường được khuyên ăn nhiều sữa đặc mỗi ngày - lời dặn dò thường gặp của các bác sĩ. Lời khuyên này giờ đây không được xem là đúng nữa và đã bị bỏ qua, vì các sản phẩm có tính độc được tạo thành trong chuyển hóa protein mà bình thường các chất này bị gan khử độc sẽ đẩy nhanh sự rối loạn các chức năng còn lại của gan. Lượng protein ăn vào mỗi ngày không quá 1g/kg cân nặng. Do đó, thường là bệnh nhân nên ăn khoảng 60 - 80g protein mỗi ngày. Hàm lượng protein có trong các loại thức ăn được tra cứu dễ dàng trong bảng giá trị dinh dưỡng.

1.3.1 Các điểm chính yếu của chế độ ăn nhẹ bình thường

Chế độ ăn nhẹ bình thường đang thay thế cho "các chế độ ăn bảo vệ phủ tạng" quá khắt khe mà lâu nay vẫn áp dụng cho các bệnh nhân bị các bệnh gan, tụy, dạ dày, bệnh túi mật hoặc bệnh ruột.

Chế độ ăn nhẹ là một loại chế độ ăn không có tác dụng điều trị. Chế độ ăn này chỉ giúp cho bệnh nhân tránh được đầy hơi, đau bụng, buồn nôn, sình bụng hoặc tiêu chảy có thể xảy ra sau bữa ăn.

Nếu bạn không dung nạp được thức ăn thì nên tránh những thức ăn mà theo ý kiến riêng của bạn là có thể gây ra các triệu chứng tiêu hóa. Lời khuyên của các chuyên gia tiết chế có thể giúp ích cho bạn trong trường hợp bị kém dung nạp. Việc này xảy ra ở một vài bệnh nhân không thể dung nạp được một vài thức ăn đặc biệt hoặc vài món ăn nào đó. Danh sách các thức ăn, món ăn bị cấm thường được cho liên quan đến rối loạn dung nạp hiện nay đã được thay thế và không nên phân

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net

#gan