Chương 37,38,39

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 37


Vào ngày 25 tháng 6, một ngày nắng chói chang và nóng như thiêu như đốt, chúng tôi rời Trường Sa.

Chúng tôi đi bằng ô tô trên những con đường làng bụi bặm, không lát gạch. Xe của chúng tôi không có máy điều hòa nhiệt độ, nên bụi luôn qua các cửa kính xe đang mở. Đã thế, mồ hôi chúng tôi tuôn ra như tắm và hai tiếng sau, khi chúng tôi tới trụ sở huyện Hướng Đan, nhìn chúng tôi tới, người ta cứ tưỏng chúng tôi vừa ở đầm lày chui lên - Bí thư huyện ủy của Hướng Đan là Hoa Quốc Phong đã nồng nhiệt đón tiếp chúng tôi. Đó là lần đầu tiên Mao cũng như tôi gặp người đàn ông mà 15 năm sau trở thành người kế nhiệm ông - Chúng tôi nghỉ ngơi một lúc ở Hướng Đan và trò chuyện với Hoa. Hoa Quốc Phong không đi tháp tùng chúng tôi vì Mao sợ rằng dân làng Thiếu Sơn sẽ không dám nói hết sự thật khi có người lãnh đạo huyện của họ đi cùng.

Làng Thiếu Sơn cách huyện lỵ Hướng Đan chừng 40 phút ôtô. Mao nghỉ lại ở một nhà trọ cũ nằm trên một quả đồi, trước đây là của những người truyền đạo Thiên chúa. Tôi ngủ trong một ngôi trường nằm dưới chân quả đồi. Đêm đến không khí thật ngột ngạt. Nằm trong màn, tôi cảm thấy chiếc giường tôi đang nằm chật chội đến nỗi tôi không tài nào chợp mắt nổi.

Khoảng 5 giờ sáng. Lý ẩm Kiều gọi tôi dậy. Cả Mao cũng không ngủ được, ông muốn tôi cùng đi dạo với ông. Chúng tôi gặp nhau trước cửa nhà trọ của ông và chúng tôi cùng đi xuống đồi với La Thụy Khanh, Vương Nhiệm Trọng, Châu Tiểu Châu và một dám vệ sĩ. Mao đứng lại trước một nấm mộ nằm giữa rừng thông. Đến khi ông cúi xuống có vẻ kính cẩn, tôi mới biết rằng chúng tôi đang đứng trước ngôi mộ của cha mẹ ông. Thẩm Đông, một người trong đám vệ sĩ nhanh nhẹn hái một bó hoa rừng và Mao đặt bó hoa lên trên mộ, rồi vái ba vái. Mọi người vái theo ông. Mao nói: ở đây có một tấm bia đá, sau bao nhiêu năm nó đã biến mất rồi. La Thụy Khanh đề nghi nên cho sửa sang lại ngôi mộ nhưng Mao không đồng ý.

- Tôi đến tìm thấy chỗ này là đủ rồi. (Trong cuốn phim về Mao khi Mao thăm Thiếu Sơn lần thứ hai. Mao thấy một tấm bia đá đã được dựng lên).

Chúng tôi liếp tục đi xuống đồi, đến ngôi nhà của gia đình Mao. Mao lại dừng lại ngạc nhiên nhìn quanh và hình như ông muốn tìm kiếm một cái gì đó. Chỗ này trước kia có mói bệ thờ Phật mà Mao vẫn thường kể. Trước bệ thờ này thân mẫu ông thường ra đó đốt hương rồi lấy tro để cho Mao ăn mỗi khi con bà đau ốm và bà tin rằng con trai bà sẽ khỏi bệnh. Cũng như tấm bia đá, chiếc bệ thờ nhỏ đó đã không còn nữa. Mấy tháng trước đây, khi các công xã được thành lập, người ta đã dỡ bệ thờ, bởi vì người ta cần gạch để xây lò luyện kim gia đình và ván gỗ để đốt lò.

Mao lặng đi. Ông rất buồn vì chiếc bệ thờ đã bị phá. Ông nói:

- Tiếc thật, đáng lẽ người ta đừng nên động đến bệ thờ. Những người nông dân đáng thương không có điều kiện đi khám bệnh sẽ có thể đến đây cầu trời và ăn tàn hương. Bệ thờ sẽ mang lại cho họ niềm hy vọng. Con người cần được giúp đỡ và an ủi.

Tôi cười, nhưng ông coi đó là việc nghiêm túc

- Đồng chí đừng coi thường tác dụng của tàn hương.

Ông nhắc lại, theo ông thuốc chỉ dùng cho những căn bệnh có thể điều trị được.

- Ngược lại, tàn hương mang đến cho người ta sức mạnh để cưỡng lại bệnh. Đồng chí là bác sĩ, đồng chí phải rằng tâm lý đóng một vai trò quan trọng như thế nào chứ?

Chúng tôi vào thăm ngôi nhà của gia đình Mao. Bấy giờ ngôi nhà đã trống rỗng - Sự sùng bái Mao mới chỉ manh nha, nên ngôi nhà vẫn ở không có gì thay đổi. Những dụng cụ làm ruộng cũ kỹ vẫn sạch sẽ, xếp thành hàng dưói hiên nhà. Người ta chỉ có thể đọc được những dòng chữ cho biết đây là ngôi nhà mà Mao đã sống thời thơ ấu trên một thanh gỗ bắc ngang ở cửa ra vào. Ngôi nhà được xây theo kiểu đặc trưng của vùng này, nhà tranh vách đất đơn sơ. Với tám căn phòng quanh một chiếc sân. Chắc hẳn ngôi nhà là của một phú nông.

Thửa ruộng đã từng là của thân phụ Mao được một người làm công cày cấy trước kia, bây giờ thuộc về công xã nhân dân - Ngay sau nhà là một cái ao có cây cối bao quanh. Mao nói:

- Tôi thường bơi ở đây và đây cũng là nơi để cho những con bò uống nước- Mao kể về thời thơ ấu của ông - Cha tôi rất nghiêm khắc. Ông thường nện chúng tôi. Một lần ông định vụt cho tôi mấy roi, nhưng tôi trốn được. Ông đuổi tôi quanh ao và chửi rủa tôi là thằng con bất hiếu. Tôi cũng cãi lại: chính người cha tàn nhẫn mới là người đáng trách.

Mao kể thân mẫu của ông là một phụ nữ xỏi lởi và sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Bà cùng với Mao và người em trai của Mao hợp thành một mặt trận thống nhất chống lại thân phụ của Mao.

- Cha tôi mất đã lâu. nếu ông còn sống đến ngày nay hẳn người ta đã quy ông là phú nông và đấu tố ông rồi.

ông đi thăm họ hàng để tận mắt thấy được kế hoạch đại nhảy vọt tác động đến họ như thế nào. Chỉ có phụ nữ và trẻ em ở nhà. Còn đàn ông đi làm ở những lò luyện kim xa nhà hoặc ở những đập nước. Thoại nhìn, Mao đã có thể cảm nhận được cuộc sống của các gia đình ở Thiếu Sơn khó khăn như thế nào. Tất cả nồi, chảo đều bị ném vào lò luyện kim, trong làng người ta chẳng giữ lại được cái nào. Mọi người phải đến ăn ở căng tin công cộng, bởi vì họ lấy đâu ra nồi để nấu. Nhưng giá mà có nồi niêu, họ cũng không thể nấu ăn được, bởi vì những cái bếp bằng đất của họ cũng đã bị phá đi để làm phân bón cho đồng ruộng. Buổi chiều, Mao cùng đi tắm với mọi người tại hồ chứa nước mới xây ở Thiếu Sơn và chuyện trò với nhân dân địa phương về công trình thủy lợi này. Mọi người đều phê phán công trình trên. Bí thư đảng ủy công xã đã ép mọi người phải hoàn thành hồ chứa nước này quá gấp nên tronh hồ đã xuất hiện một chỗ rỉ nước. Ngoài ra sức chứa của hồ quá ít ỏi đến nỗi mỗi khi mưa xuống. người ta phải xả bớt nước để nước khỏi tràn ra ngoài.

Những người lãnh đạo công xã gọi người của họ từ nơi làm việc về và Mao đã mời họ khoảng 50 người đi ăn tối trong một quán trọ. Họ đều phàn nàn về những căng-tin công cộng. Các cụ già không thích vào đó vì họ thường bị thanh niên chen lấn. Còn những người trẻ tuổi không thích đến đó vì họ không bao giờ được ăn uống no nê. Những trận đấm đá tranh nhau miếng ăn xảy ra liên miên và trong những cuộc ẩu đả đồ ăn thức uống vung vãi tứ lung.

Mao hỏi dò mọi người về lò luyện kim gia đình. Ông chỉ nghe thấy những lời than phiền. ở khu vực này chẳng có quặng, mỏ gì. Người ta phải khai thác những loại than kém phẩm chất tại chỗ để đốt lò. Đã vậy vì không có quặng sắt nên chỉ còn cách duy nhất để hoàn thành chỉ thị là sung công tài sản của nông dàn. Cho nên thành phẩm ra lò chỉ là những cục sắt vô dụng. Khi Mao ngừng hỏi, căn phòng chìm trong yên lặng. Một bầu không khí ảm đạm trùm lên tất cả chúng tôi. Kế hoạch đại nhảy vọt Thiếu Sơn đã không thành công. Mao nói:

- Nếu ở căng-tin các đồng chí không được ăn no, thì tốt hơn là hãy đóng cửa căng-tin. Nếu không thì chỉ lãng phí lương thực. Còn đập nước, theo tôi, mỗi làng cũng chẳng cần có hồ dự trữ nước riêng của mình làm gì. Nếu xây những hồ chứa nước không đúng quy cách thì có ngày gặp họa. Và nếu các đồng chí không luyện được thép có chất lượng cao thì tốt hơn các đồng chí đừng nên làm nữa.

Những lời nói của Mao đã hợp pháp hóa việc Thiếu Sơn là làng đầu tiên ở Trung quốc giải tán các nhà ăn công cộng, đình chỉ việc xây dựng các hồ chứa nước và dỡ bỏ dần những lò luyện kim. Những lời nói của Mao tuy chưa được công bố, nhưng được mau chóng truyền miệng lan đi khắp nơi Chẳng bao lâu, ở nhiều nơi những công trình trên đã bị đình chỉ.

Chuyến viếng thăm làng Thiếu Sơn đã đưa Mao trở lại với thực tế. Đến khi chúng tôi trở lại Vũ Hán, niềm cao hứng của Mao đã tiêu tan. Nhưng ông luôn luôn khẳng định rằng những chương trình chính trị như trên về cơ bản vẫn đúng, có điều người ta phải thực hiện chúng một cách từ từ hơn. Ngay đến lúc này ông cũng không muốn làm nguội đi lòng nhiệt tình của quần chúng. Vấn đề là ở cán bộ. Làm sao người ta có thể đưa những người cán bộ trở lại với thực tế mà không làm tổn hại đến tinh thần của họ, hoặc không tạo ra một bàu không khí nặng nề trong dân chúng? Đó là vấn đề tuyên truyền: Làm sao người ta có thể động viên được cả cán bộ cũng như nông dân mà vẫn làm cho họ đứng vững được. Mao quyết định triệu tập một cuộc họp để bàn về tuyên truyên. Cuọc họp diễn ra ở Vũ Hán.

Ngày 28 tháng 6 chúng tôi gặp nhau ở Vũ Hán, nơi có tiết trời nóng như thiêu như đốt. Vương Nhiệm Trọng đề nghị nên họp ở nơi có khí hậu dễ chịu hơn. Ông đề nghị họp ở Thanh Đảo, địa điểm của cuộc họp hồi mùa hè năm 1957, nhưng Mao nhớ đến lần ông bị cảm nặng ở đó nên ông đã từ chối.

Kha Thanh Thế, thị trưởng thành phố Thượng Hải đề nghị địa điểm họp ở Lư Sơn, nơi nghỉ mát nổi tiếng ở vùng núi gần sông Dương Tử thuộc tỉnh Giang Tây và cũng là nơi Tưởng Giới Thạch thường triệu tập các cuộc họp của Quốc dân đảng, ở độ cao 1500 mét, tiết trời chắc sẽ mát mẻ, dễ chịu. Ngoài ra, từ Vũ Hán đến Lư Sơn cũng không xa lắm người ta chỉ cần đi tàu thủy dọc sông Dương Tử là tới. Quan trọng là nhiều cán bộ lãnh đạo đảng đã có mặt ở Vũ Hán, nên việc đưa họ đến Lư Sơn không thành vấn đề. Mao đồng đề nghị này. Đảng sẽ họp ở Lư Sơn.


Chương 38


Tại những nơi khác ở Trung quốc tình hình còn tệ hơn ở Thiếu Sơn. Nạn đói khủng khiếp lan ra khắp cả nước. ở tỉnh An Huy, nơi lần đầu tiên bí thư tỉnh ủy Tăng Huy Sinh chỉ cho Mao xem những lò luyện kim gia đình, bị tàn phá hết sức nặng nề, cũng như ở tỉnh Hà Nam mà chúng tôi đã đến thăm vào tháng 8 năm 1958 để thị sát những công xã nhân dân mới được thành lập. Tại một vài nơi hẻo lánh, mật độ dân số thưa thớt, chẳng hạn như ở Cam Túc đã có dân bị chết đói. Nông dân ở tỉnh Tứ Xuyên cũng bị chết đói. Tứ Xuyên là tỉnh đông dân, rộng hơn nhìèu tỉnh khác và được coi là vựa lúa của Trung quốc. Tại đây tháng ba năm 1958 Mao đã tuyên truyền kế hoạch của ông là trong 15 năm tới Trung quốc sẽ vượt nước Anh. Như trong lịch sử thường xảy ra, hàng chục nghìn nông dân đã bỏ làng ra đi vì nạn đói.

Trên đường đến Lư Sơn, tôi nghe được tất cả những điều này khi tôi cùng với Mao, những người cộng tác của ông và những cán bộ lãnh đạo các tỉnh xuôi theo dòng Dương Tử hùng vĩ. Điền Gia Anh cũng ở trên tàu, ông còn nhớ như in chuyến thanh tra kéo dài sáu tháng ở Hà Nam và Tứ Xuyên theo lệnh của Mao. Trên boong tàu, tôi đứng bên cạnh ông, Lâm Khắc và Vương Kính Tiên, người giữ chức vụ của Uông Đông Hưng, chịu trách nhiệm bảo vệ Mao. Điền Gia Anh đã mô tả nạn đói khủng khiếp ở Tứ Xuyên. Chỉ tiêu sản lượng thép hết sức lạc quan trong năm 1959 được giảm từ 20 triệu tấn xuống 13 triệu tấn. Nhưng vẫn còn 60 triệu nông dân và những người khỏe mạnh làm việc ở những lò luyện thép, mà lẽ ra người ta cần họ làm việc ngoài cánh đồng. Việc phung phí lực lượng lao động này đã gây ra hậu quả thật trầm trọng. Tình hình trở nên bi đát hơn.

Đĩen Gia Anh không chỉ khổ tâm vì nhiều người bị chết mà trước hết ông lấy làm buồn rầu về việc nhiều cán bộ cao cấp đã tìm cách che đậy tình trạng khủng hoảng. Tờ bản tin ngày càng trở nên vô nghĩa được phổ biến rộng rãi. Nhưng những con người dối trá vẫn còn, trong khi người ta lại công kích những người dám nói ra sự thật.

Cuộc trò chuyện luôn đề cập đến Mao. Ông là một triết gia vĩ đại, một người lính vĩ đại, một nhà chính trị vĩ đại, nhưng ông là một nhà kinh tế tồi một cách đáng sợ. Ông say mê đối với công trình vĩ đại và ông đã mất đi sự liên hệ với nhân dân cũng như ông đã quên mất tác phong làm việc vẫn thường được tuyên truyền: sự thật chứng tỏ tính khiêm nhường và và sự chu đáo trong công việc. Đây có lẽ là những nguyên nhân sâu xa đối với những vấn đề kinh tế của đất nước.

Mặc dù tôi biết rằng, tình hình kinh tế rất tồi, nhưng tôi không biết nạn đói đã lan ra khắp cả nước và hàng triệu người đã bị chết đói. Và tôi cũng rất ngạc nhiên khi người ta phê bình Mao. Thường thì Điền Gia Anh rất cẩn trọng và thành thật. Nhưng bây giờ anh ta lại thành thật nói như vậy trong một nhóm người tin cậy và điều đó cũng nguy hiểm. Sự phát hiện của Vương Kính Tiên bình thường đã làm cho tôi ngạc nhiên rồi. Vương chịu trách nhiệm về sức khỏe của Chủ tịch và với bè bạn ông là người dè dặt. Còn tôi thì im lặng như Lâm Khắc.

Kha Thanh Thế, Vương Nhiệm Trọng và Lý Tinh Toàn, bí thư thứ nhất tỉnh ủy tỉnh Tứ Xuyên, đã đến nhập cuộc để nghe cuộc tranh cãi sôi nổi của chúng tôi. Điền Gia Anh nói: Chúng tôi nói đến những khó khăn về lương thực, thực phẩm. Mọi người sẽ bị chết đói mất. Lý Tinh Toàn đáp: Trung quốc là một đất nước rộng lớn. Dưới triều đại nào mà chẳng có người bị chết đói?. Ông ta có lý. Những nạn đói xảy ra lặp đi lặp lại là một phần của lịch sử Trung hoa. Nhưng nám 1959, Trung quốc đang ở giai đoạn giữa của kế hoạch đại nhảy vọt. Thậm chí, trong khi nhiều người bị chết đói thì những lời tuyên truyền chính thức vẫn khẳng định một cách viển vông. Vương Nhiệm Trọng nói và nhắc lại lời Mao chủ tịch: Mọi người vẫn tỏ ra hăng say với công việc hơn trước đây. Cả hai vị bí thư tỉnh ủy này đều hoàn toàn ủng hộ đường lối của Mao.

Kha Thanh Thế cũng ngả theo chính sách của Mao: Một số người chỉ chú ý đến những việc nhỏ mà không nhìn ra những việc lớn. Họ luôn nhìn sự tiêu cực trên bề mặt và có lẽ họ đã ca thán về mọi vấn đề. Chủ tịch cho rằng, những người như vậy dù có đứng trước dãy núi nhưng có lẽ vẫn chưa nhận ra nó.

Trước khi đến Lư Sơn trận tuyến đã rõ ràng. Vương Nhiệm Trọng, Lý Tinh Toàn và Kha Thanh Thế bị Mao ép: hoặc là tăng sản lượng hoặc là mất chức. Đúng ra, họ đã trở thành vật tế thần của Mao vì họ đã không linh động giải quyết những vấn đề kinh tế của mình và trung ương đã mớm những số liệu thống kê kinh tế thiếu thực tế nhằm ca ngợi kế hoạch đại nhảy vọt, vì họ biết chắc rằng ở đó người ta muốn nghe điều gì. Họ được những cán bộ trung ương như La Thụy Khanh và Dương Thượng Côn ủng hộ. Mặc dù phạm vi công việc chính thức của họ không phải là kinh tế nhưng những người này đã quen với sự ghen tị về chính trị của Mao, sau khi đã có lần họ bị Mao chỉ trích. Bây giờ họ không dám làm gì để chọc tức Mao...

Những người phê bình Mao chủ yếu có hai thái độ. Một là đại diện của những người lập kế hoạch như Bạch Nhất Ba, chủ nhiệm ủy ban Kinh tế nhà nước và Lý Phú Xuân, người được giao chức chủ nhiệm ủy ban Kế hoạch nhà nước. Họ có nhiệm vụ phải thực hiện bằng được những chỉ tiêu về sản lượng và lập những kế hoạch phù hợp. Khi bắt đầu thực hiện kế hoạch đại nhảy vọt, Bạch Nhất Ba đã khước từ việc quy định những chỉ tiêu không thực tế về sản lượng. Nhưng sau đó dưới áp lực của Mao ông đã phải nhượng bộ. Khi Bạch nhận ra được hết mức độ của cuộc khủng hoảng, ông đã ra lệnh cho ban tham mưu của ông chuẩn bị sẵn một bản tường trình tỉ mỉ và trung thực. Nhưng vì ông cảm thấy Mao rất khó chịu với những lời chỉ trích, nên ông không dám liều trình bày bản báo cáo với Mao. Trong một hội nghị bằng điện thoại, ông đã ủy nhiệm cho những người dưới quyền ông ở khắp đất nước phải hoàn thành vượt mức sản lượng kế hoạch. Ông chắc rằng những kế hoạch kinh tế táo bạo của Mao sẽ thất bại, nhưng ông không dám cả gan thách thức Mao Chủ tịch. Chẳng khác gì Lý Phú Xuân, Bạch Nhất Ba chưa bao giờ công khai chỉ trích kế hoạch đại nhảy vọt.

Nhóm người phê bình thứ hai là những người phụ trách các cuộc thanh tra ở các tỉnh và họ biết được cuộc thảm họa từ những nguồn tin đáng tin cậy. Họ không những là các nhà kinh tế - kế hoạch, mà còn chịu trách nhiệm thi hành kế hoạch dồ sộ của Mao. Nhưng họ biết cuộc khủng khoảng của đất nước sẽ trầm trọng ra sao. Những thư ký chính trị của Mao - Điền Gia Anh. Hồ Kiều Mục và Trần Bá Đạt- cũng thuộc nhóm này. Nhiệm vụ của họ là thuật lại trung thực những bản báo cáo.

Khi những người chỉ trích trao đổi với nhau, họ đều nhất trí với nhau rằng, hầu như những con số vượt chỉ tiêu sản lượng đã được báo cáo hầu như không đúng. Trong thực tế, những con số đó rất thấp và đủ cho Mao bị thất sủng. Phần lớn họ là những kẻ xu thời. Ngay cả những người như Điền Gia Anh đã từng tham gia thanh tra, hoặc như Châu Tiểu Châu, người đã không những thấy được mức độ của cuộc khủng hoảng không chỉ ở địa phương của mình và đã chỉ trích cuộc đại nhảy vọt mà còn chỉ trích cả Mao. Trên tàu, Điền Gia Anh đã sẵn sàng tranh luận với Lâm Khắc về những vấn đề của đất nước, nhưng những người trung thành với Mao, như Kha Thanh Thế và Lý Tinh Toàn, đã tập hợp chúng tôi lại, nên ông ta im lặng.

Ngày 1-7, chúng tôi ghé vào Cửu Giang thuộc tỉnh Giang Tây. Uông Đông Hưng, người đã ở lại Giang Tây để cải tạo, được đề bạt làm phó tỉnh. lên tàu chào chúng tôi. Ông bảo đảm với Mao rằng. Ông có mối quan hệ mật thiết với quần chúng và từ kinh nghiệm này ông đã học được nhiều điều quan trọng. Chủ tịch rất vui. Ông nói:

- Chỉ những cán bộ cao cấp thường không chịu rèn luyện. Chúng ta phải sửa lại, mỗi người làm việc ở trung ương, thỉnh thoảng cần phải xuống làm việc ở các cơ quan của tỉnh.

Con đường từ Cửu Giang đến Lư Sơn được lát gạch rất tốt. Và sau hơn một giờ đồng hồ chúng tôi đã đến vùng nghỉ mát mở rộng ở những dãy núi. Dương Thượng Côn, bí thư thứ nhất của đảng, Phương Chí Xuân, Chủ tịch Hội nghị đại biểu nhân dân tỉnh Giang Tây và phó tỉnh Uông Đông Hưng đã lo việc tiếp đón chăm sóc các vị lãnh đạo đảng. Trong khi Uông thi hành những biện pháp an ninh bảo vệ Mao, ông đã va chạm với Vương Kính Tiên. Vương vờ không tuân lệnh Uông Đông Hưng, vì đã lâu Uông Đông Hưng không ở cùng Mao, và do đó ông không hiểu Chủ tịch. Uông Đông Hưng không bao giờ tha thứ cho sự xúc phạm này và về sau Vương Kính Tiên đã phải trả giá.

Mao sống trong một biệt thự hai tầng của Tưởng Giói Thạch. Tôi được thu xếp ở trong một ngôi nhà gần đó. ở đây lạnh và ẩm. Chúng tôi ở trên cao, nên những đám mây có thể ùa vào phòng tôi nếu tôi mở cửa sổ.

Hôm 2-7, một ngày sau khi chúng tôi đến. Mao triệu tập Bộ chính trị họp mở rộng. Ông đặt tên cho cuộc họp là cuộc gặp của các ông tiên. Chúng tôi giống như nhữg ông tiên sống giữa những đám mây, chẳng bận tâm lo lắng gì. Mao không muốn nội dung cuộc họp cứng nhắc. Những người lãnh đạo của đảng nên nói ra tất cả những gì còn chất chứa trong lòng. Ông đưa ra 19 điểm để tranh luận và ông khuyến khích những người tham dự cuộc họp nói công khai.

Bắt đầu cuộc họp, chủ tịch biết, sẽ có vấn đề đối với kế hoạch đại nhảy vọt. Nhưng ông cho rằng, người ta đã sẵn sàng thi hành những biện pháp giải quyết những vấn đề đó, ông không có lý do gì để lo ngại. Trong bài diễn văn ngắn chào mừng, ông đã ca ngợi thành quả của kế hoạch đại nhảy vọt, ám chỉ đến những khó khăn, ông nói rằng ông hy vọng những người tham dự cuộc họp biết đánh giá sức mạnh và tính sáng tạo của dân tộc Trung hoa.

Mao luôn tin tưởng kế hoạch đại nhảy vọt sẽ không đổ vỡ. Tôi không lạ gì vào thời điểm của câu nói này, ông đã thông tin tình hình thực tế như thế nào. Chuyến về thăm quê của ông rõ rằng đã làm cho ông cố gắng. Nhưng tôi nghĩ vào ngày 2.7. 1959, ông vẫn còn chưa rõ tình hình khủng hoảng đã tới mức độ nào và ông vẫn nghĩ rằng, đảng đã làm tất cả để làm chủ tình thế.

Trong cuộc họp của các ông tiên, một mặt những đề nghị giải quyết vấn đề cần được tranh luận. Nhưng mặt khác cũng phải tìm ra cách giữ vững sự nhiệt tình của quần chúng. Khẩu hiệu của Mao kêu gọi nhân dân đơn giản là: Công việc vẫn còn nhiều khó khăn!

Những điều tôi ghi nhận được là ông đã nói:

- Đôi khi tôi tự hỏi mình: Nếu sản lượng của chúng ta tăng nhanh như vậy, thì tại sao việc cung cấp lương thực, thực phẩm lại tôi tệ đến thế Tại sao nhân dân không có xà phòng và diêm? Tại sao phụ nữ không mua được trâm cài tóc. Chúng ta không thể giải thích được tình hình, nên chúng ta hoàn toàn không muốn liều lĩnh. Chúng ta phải kiên trì chịu dựng cuộc khủng hoảng và tiếp tục phát huy quyết tâm và sức mạnh to lớn của chúng ta. Năm tới việc cung cấp sẽ được cải thiện tết hơn. Sau đó, chúng ta sẽ làm rõ mọi vấn đề. Tóm lại, cần khẳng định rằng, tình hình chung là tốt đẹp. Trong nhừng lĩnh vực khác còn nhiều vấn đề, nhưng tương lại xán lạn dang ở trước mặt chúng ta.

Ngay sau khi ông nói, các nhà chính trị đã tự phân thành những nhóm

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net

Ẩn QC