dong dinh ho ngoai su 1 10

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Việt Nam Thư Quán - Thư Viện Online 145 Phiếu Sao điểm 5 sao4 sao3 sao2 sao1 sao Đã xem 129585 lần.

Kiếm Hiệp

Q2 - Động Đình Hồ Ngoại Sử

Hồi 1

Nay Hán xuống Bạch thành đóng lại,

(Chinh phụ ngâm khúc)

 Nghiêm Sơn cho các đạo binh lên đường được ba ngày thì có ngựa lưu tinh báo rằng Triệu Anh-Vũ đã cho binh vượt Thiên-sơn. Đào Kỳ và toàn quân chiếm được Độ-khẩu. Tại bản doanh còn Nam-hải nữ hiệp, Phương-Dung, Lê Ngọc-Trinh, Lương Hồng-Châu với đạo binh Nam-hải. Vương nói với Nam-hải nữ hiệp: – Tôi với Phương-Dung phải lên đường đi Kinh-châu. Đạo Kinh-châu do Đại-tư-mã Đặng Vũ thống lĩnh. Đặng là một đại-tướng giỏi nhất của Hán, ngặt vì phó tướng của Đặng là Mã Viện không ai chịu ai, vì vậy hơn năm qua, không thắng được Thục. Nếu tôi có mặt, thì hai người mới không dám kình chống nhau. Phương-Dung hỏi: – Mã Viện là ngưới thế nào? – Mã Viện được phong chức Phục-ba tướng quân. Hồi phụ thân ta làm tướng cho Trường-sa vương. Viện là một huyện-úy. Sau cô Viện trở thành Vương-phi Trường-sa vương, y được cất nhắc lên chức Đô-úy, rồi Thái-thú. Hồi ta cùng Kiến-Vũ thiên-tử khởi binh, y đem toàn quân theo. Kiến-Vũ thiên-tử cảm động là người trung lương, chỗ con cô con cậu, nên cho y giữ đại quân. Lúc ta với Đặng Vũ đánh chiếm Kinh-châu, có bàn với Thiên-tử rằng: "Đất Kinh-châu địa thế phân chia Nam, Bắc Trung-nguyên bằng sông Trường-giang. Phía Bắc là hàng rào bảo vệ Lạc-dương, phía Nam tiếp giáp Lĩnh-nam, nơi các Thái-thú bất phục. Phía Đông giáp Mân-Việt, lòng người nan trắc. Phía Tây giáp Thục, Công-tôn Thuật hùng cứ, bất cứ lúc nào cũng gặp nguy hiểm, cần có người văn võ kiêm toàn, trung lương trấn thủ. Ta đề cử Mã Viện trấn giữ chín quận Kinh-châu, còn em y là Mã Anh làmThái-thú Trường-sa. Trong khi ta đánh vùng Giang-đông, chiếm Mân-việt, rồi kinh lược Lĩnh-nam" Lê Ngọc-Trinh hỏi: – Tại sao Kiến-Vũ thiên-tử không giao cho Mã Viện đánh Thục, mà lại giao cho Đặng Vũ? Nghiêm Sơn lắc đầu: – Mã Viện tuy là người trung lương, nhưng so với Đặng Vũ y chỉ là một đại tướng dưới quyền. Cho trấn thủ Kinh-châu là quá sức rồi. Chứ còn thống lĩnh quân nghiêng nước, các tướng khác như Sầm Bành, Mã Vũ không phục. Tuy vậy Kiến-Vũ thiên-tử vẫn giao y trấn thủ Kinh-châu kiêm phó tướng cho Đặng Vũ. Nghiêm Sơn thở dài tiếp: – Mã cậy thế là người thân của Mã thái-hậu, trấn thủ vùng trọng địa, trong khi tài ba, công lao y thua xa 9 đại tướng dưới quyền Đặng Vũ, được ta tặng cho danh hiệu "Tương-dương cửu hùng". Phương-Dung tỏ vẻ hiểu biết: – Tương-dương cửu hùng là chín đại tướng võ công vô địch, tài dùng binh không thua Tôn Vũ, dường như họ tên là Sầm Bành, Mã Vũ, Cảnh Yểm, Tế Tuân, Tang Cung, Lưu Hán, Phùng Tuấn, Đoàn Chí, Lưu Long. Tất cả chín người theo Kiến-Vũ thiên-tử từ khi mới khởi binh. Hiện họ đều ở đạo Kinh-châu cả sao? – Đúng thế. Vì võ công cao, tài dùng binh giỏi, lại nhiều công lao hơn Mã Viện. Mã Viện làm phó tướng, họ bất phục. Đã vậy Mã Viện còn muốn hất cẳng Đặng Vũ, khi Đặng Vũ cầm quân đánh vào Thục, y tìm cách chần chờ không chịu cung ứng lương thảo, bổ sung binh lính, cho nên Đặng Vũ mới thua. Phương-Dung gật đầu: – Vì vậy đại ca cần có mặt ở Kinh-châu phải không? Dường như Mã Viện chỉ sợ có Thiên-tử với đại ca thì phải? Nghiêm Sơn gật đầu: – Đúng thế. Việc dùng binh quan trọng nhất là trị quân cho nghiêm. Ta thành công nhờ đều đó. Một lần Mã Viện ỷ thế Mã thái-hậu, ta sai đem ra chặt đầu. Kiến-Vũ thiên-tử xin ta tha tội cho y. Ta phạt đánh y 30 côn, cách chức xuống còn sư trưởng, sai đi lập công chuộc tội. Từ đó y thấy ta như gà thấy cáo. Sư muội thấy đấy ta đối xử với anh hùng Lĩnh-nam, sư bá, sư thúc, sư đệ, sư muội bằng tất cả tình ruột thịt, họ là anh hùng, họ biết vì đại nghĩa tuân phục lệnh ta, thì có gì xảy ra đâu? Lê Ngọc-Trinh nói: – Bọn em là người hiệp nghĩa. Đem chữ hiệp ra làm việc, mà lại gây sự với nhau. Đem chữ nghĩa ra giúp đại ca Dù mất mạng cũng không từ, còn đâu là chuyện bất tuân lệnh nữa. Nghiêm Sơn gật đầu: – Sư muội nói đúng đó. Vương nói với Nam-hải nữ hiệp: – Phàm việc xung phong, tranh thắng, cần bảo vệ hậu quân cho vững. Lỡ hậu quân có biến cố, thì tiền quân bị lâm vào thế lưỡng đầu thọ địch. Hai vị Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ đã vượt Kim-sơn. Đào Kỳ đang chiếm Độ-khẩu, song địa thế quá hiểm trở, vậy cần bảo vệ hậu quân thực kiên cố. Cho nên tôi mới nhờ Nam-hải nữ hiệp, sư thúc Lương Hồng-Châu, sư muội Lê Ngọc-Trinh là những người tinh minh mẫn cán, thống lĩnh đạo Nam-hải với ba Quân-bộ, ba Sư-kỵ dàn ra làm trừ bị, bảo vệ hậu quân. Phương-Dung hỏi: – Trong sáu đạo quân Lĩnh-nam, đạo Nam-hải bảo vệ hậu quân, đạo Nhật-nam sư bá Lại Thế-Cường đã điều lên Kinh-châu trợ chiến, đạo Cửu-chân do Hoàng sư-tỷ chỉ huy, đạo Quế-lâm do Minh-Giang chỉ huy, đạo Tượng-quận do sư đệ Đào Hiển-Hiệu thống lĩnh đánh Độ-khẩu. Đại ca nghĩ xem quân số đánh vào mặt sau Ích-châu như vậy đủ chưa? Nghiêm Sơn nói: – Ta được Tế-tác báo cho biết, Công-tôn Thiệu dồn toàn lực ra Kinh-châu, Hán-trung. Mặt Nam do một tướng trẻ, con nuôi Công-tôn Thiệu tên là Công-tôn Phúc tước phong Bình-nam vương trấn thủ. Quân số chưa quá 5 vạn, làm sao địch lại Tiểu sư-đệ với hai vị Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ? Phương-Dung, Nghiêm Sơn lên đường đi Kinh-châu. Nghiêm Sơn chỉ mang theo mười tiễn thủ của phái Hoa-lư hộ vệ. Phương-Dung mang theo mười Thần-ưng liên lạc với các cánh quân. Lần đầu tiên Nghiêm Sơn thấy Phương-Dung cỡi con ngựa Ô. Ngựa Ô là một loại ngựa rừng Tây-vu. Hồ Đề phải mất công khó nhọc lắm mới bắt được nó. Trong buổi gặp gỡ đầu tiên, nàng tặng cho Phương-Dung. Nghiêm Sơn thấy Phương-Dung cưỡi ngựa không yên cương thì ngạc nhiên. – Ngựa không cương làm sao mà điều khiển được? Phương-Dung cười: – Nó là ngựa hoang, được chị Hồ Đề dạy dỗ, hiểu được tiếng người, không cần cương. Nàng hô lớn: – Chạy mau! Con ngựa Ô vọt lên như tên bắn. Nghiêm Sơn phi ngựa theo. Hai người tới Kinh-châu vào khoảng nửa đêm. Vương với Phương-Dung gọi cửa. Đặng Vũ, Trưng Nhị mở cửa thành ra đón. Trưng Nhị nhìn mặt Phương-Dung biết đã thành công, nàng hỏi: – Chiếm được Độ-khẩu, Kim-sơn rồi à? Phương-Dung gật đầu: – Quân đã qua Kim-sơn và Độ-khẩu rồi. Có lẽ giờ này họ đang trên đường tới Thành-đô. Cho nên em với Nghiêm đại-ca lên đây xem Đặng đại tư-mã cùng chị chiếm ải Xuyên-khẩu vào Bạch-đế. Với hùng tài đại lược của Đặng đại tư-mã thì vào Thành-đô chắc nhanh hơn Đào tam-ca. Đặng Vũ thất kinh hồn vía nghĩ: Trước đây Kiến-Vũ thiên-tử thường nói rằng Nghiêm Sơn vừa có mưu, vừa có trí, lại thêm tính tình hào sảng của võ lâm hiệp sĩ không sai. Vương từ Lĩnh-Nam lên đạo quân ít hơn ta nhiều, nhờ tinh thần hiệp nghĩa, vương được một số cao nhân hiệp sĩ giúp đỡ, mới thành công như vậy. Kiến-Vũ thiên-tử, Ngô Hán với ta đều cho Tế-tác thám thính tìm đường đánh mặt sau Ích-châu mà tuyệt vọng, vì sông nước chảy xiết, núi cao vời vợi, không thể vượt qua. Nay vương đã làm được, thì vương hơn ta gấp bội, vương xứng đáng là người trên ta. Kiến-Vũ thiên-tử hứa rằng, ai bắt hoặc giết được Công-tôn Thuật sẽ cho làm chúa Ích-châu. Nghiêm Sơn làm chúa Lĩnh-Nam, nơi bờ xôi giếng mật, vương đâu có thèm làm chúa Ích-châu? Ta cần phải được lòng vươn mới mong vào Ích-châu. Vì vậy Đặng Vũ đối với Nghiêm Sơn cực kỳ cung kính. Y sai chuẩn bị trướng gấm cho Nghiêm Sơn nghỉ, để hôm sau còn tiếp tục nghĩ kế đánh Xuyên-khẩu. Phương-Dung ở chung với Trưng Nhị, Hồ Đề. Sau khi rời Phiên-ngung, Trưng Nhị điều động anh hùng Lĩnh-Nam theo Đặng Vũ lên Kinh-châu trước. Còn Lại Thế-Cường với Hồ Đề thống lĩnh đạo Nhật-nam cùng với binh đoàn đặc biệt Tây-vu lên sau. Phải hơn tháng mới tới. Trong khi chờ đợi Lại Thế-Cường, Hồ Đề tới, Trưng Nhị suốt ngày cùng Đặng Vũ lo bổ sung binh mã, tiếp thu lương thảo, thao luyện binh sĩ. Mọi việc vừa hoàn tất thì Nghiêm Sơn tới. Chỉ cách nhau một tháng mà Trưng Nhị, Hồ Đề cảm thấy như xa Phương-Dung một năm vậy. Họ là những thiếu nữ trẻ tuổi tài năng xuất chúng, cùng hướng về đaÏi cuộc phục hồi Lĩnh-Nam, coi nhau như chân tay. Trần Năng hỏi về kế hoạch đánh Độ-khẩu và Kim-sơn, Phương-Dung trình bày tỉ mỉ từng chi tiết một. Hồ Đề bảo Phương-Dung: – Sau này nếu chúng ta khởi binh, phải chia thành khu vực, đánh nhiều mặt trận cùng một lúc, theo ý em phải chia như thế nào? Phương-Dung đáp: – Em đã nghĩ đến chuyện này rồi. Chúng ta chia làm bốn khu vực khác nhau. Khu vực Quế-lâm thì sư bá Triệu Anh-Vũ, Lương Hồng-Châu sẽ đứng chủ trương đại cuộc. Nhưng người điều khiển phải là Minh-Giang. Sư huynh Minh-Giang kinh nghiệm hành quân lại, lại hiểu nhân vật địa phương; huyện-lệnh, huyện-úy người nào theo ta, người nào chống ta, y biết hết. Trưng Nhị trầm ngâm một lúc tiếp: – Phương-Dung nhận xét đúng, chắc em đã thổ lộ mưu kế của chúng ta với Minh-Giang. Hiện giờ em để Đào tam đệ chỉ huy mặt Nam Ích-châu, còn Minh-Giang là Phấn-oai đại tướng-quân. Y là người Hán, liệu y có chống Quang-Vũ không? Phương-Dung gật đầu: – Chúng ta đã có 5 Thái-thú, 6 Đô-úy, Đô-sát, 5 Đại tướng-quân, thì Lĩnh-Nam đã là của chúng ta rồi. Chỉ còn Tô Định mà thôi. Tô bây giờ như người cụt tay, cụt chân. Đô-úy là sư thúc Trần Khổng-Chúng. Anh hùng Lĩnh-Nam do Đặng Thi-Sách, Trưng Trắc thống lĩnh. Kỵ binh có đaÏo Văn-lạc và Đăng-châu chiếm Luy-lâu. Các đạo Mai-động, Cối-giang, Thái-hà chiếm Long-biên. Còn các nơi khác như Thiên-trường, có sư thúc Trần Quốc-Hương, Lục-hải có Hùng Bảo, Trường-yên có phái Hoa-lư...Nghĩa là chúng ta cùng khởi binh một ngày. Quan lại địa phương ai theo ta thì để, ai không theo, chặt đầu. Trần Năng tiếp: – Vấn đề trước mắt là, ai thống lĩnh quần hùng? Từ trước đến nay, chúng ta mạnh ai nấy làm, chưa có người làm chúa tướng? Em sợ khi đánh đuổi giặc đi rồi lại lâm vào hoàn cảnh tranh giành địa vị. Phật-Nguyệt nói: – Đúng đấy, hiện chúng ta tôn Nam-hải nữ hiệp là người cầm đầu anh hùng Lĩnh-Nam. Nam-hải nữ hiệp chỉ là người đạo đức, cầm đầu anh hùng thì được, chứ tổ chức, cai trị một quốc gia thì không được. Phương-Dung suy nghĩ một lúc rồi nói: – Bàn chung những người sau đây có đủ tài năng, đức độ để làm chuyện đó: Đào-hầu, Đinh-hầu ở Cửu-chân, Đặng đại-ca, Nhị Trưng, sư thúc Đào Thế-Hùng. Em nghĩ sáu người này đều không ai bằng Nghiêm đại-ca. Trưng Nhị gật đầu: – Ta cũng nghĩ thế, tại sao ta không để Nghiêm đại-ca làm Lĩnh-Nam hoàng đế? Phương-Dung cười: – Em gần Nghiêm đại-ca nhiều, em biết chí của người lắm. Khi đứng ra giúp chúng ta xin Quang-Vũ cho phục hồi Lĩnh-Nam, thì Nghiêm đại-ca xin từ chức Lĩnh-nam vương, để tỏ ý không vì tham quyền cố vị mà chống lại nghĩa huynh Quang-Vũ. Người cũng như sư tỷ Hoàng Thiều-Hoa, chỉ thích tiêu dao sơn thủy. Vì vậy nếu Quang-Vũ thuận, người sẽ để Lĩnh-Nam cho chúng ta tổ chức thành một nước. Còn Quang-Vũ không thuận ắt có chiến tranh. Trường hợp đó Người sẽ đứng ngoài, không muốn giúp Quang-Vũ đánh chúng ta, cũng không muốn vì chúng ta mà phản Quang-Vũ. Phương-Dung trầm tiếng: – Em nghĩ thế này có đúng không: Sáu vùng Tượng-quận, Quế-lâm, Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-nam, Nam-hải, các lạc-hầu bầu lấy một vị vương. Sáu vị vương đó bầu lấy một Lĩnh-Nam hoàng đế: Lệ đặt ra 5 năm bầu lại một lần. Trần Năng vỗ tay: – Sư thẩm hay thật, nghĩ ra được lối giải quyết đó. Ngày xưa, các động, trang đã bầu người thống lĩnh Tây-vu là An-Dương vương, nổi lên đánh vua Hùng. Có điều họ chỉ biết bầu lên, mà không biết ấn định thời gian tái bầu. Thành ra Ngài trở thành vị Hoàng-đế, cho đến lúc già, đầu óc thiếu minh mẫn, lầm lần trong vụ Trọng-Thủy. Trưng Nhị gật đầu: – Bây giờ chúng ta tạm coi thống lĩnh Cửu-chân là Đào-hầu, Nhật-nam là sư bá Lại Thế-Cường, Giao-Chỉ là Đặng đại-ca, Quế-lâm là sư bá Triệu Anh-Vũ, Nam-hải là Khúc-giang ngũ hiệp. Còn Tượng-quận thì phải lên Trường-sa mời Tượng-quận tam anh. Phương-Dung nói: – Còn Lĩnh-Nam hoàng đế, vấn đề khó đây. Bây giờ chúng ta cùng đoán xem, ai sẽ được bầu. Rồi mỗi người cùng viết vào một mảnh giấy kín, xem có ai giống nhau không? Các anh hùng cầm bút, viết lên giấy. Lại Thế-Cường thu các tờ giấy, mở ra. Thấy có 9 tờ thì 8 tờ ghi chữ Trưng Trắc, một tờ ghi chữ Đào Thế-Kiệt. Ông cười tủm tỉm nói với Trưng Nhị: – Ta gấp đôi tuổi cháu, ta nhận xét không sai đâu, trước sau gì chị cháu cũng phải lĩnh chức Lĩnh-Nam hoàng đế. Thực là từ tiền cổ đến giờ mới có một. Muôn ngàn năm sau, anh hùng thiên hạ đều lắc đầu không hiểu tại sao chúng ta lại cử nữ hoàng đế. Song không cử Trưng Trắc thì không biết cử ai đây? Trưng Nhị khẳng khái nói: – Nếu tất cả anh hùng đều đề cử, chắc chị cháu nhận lĩnh. Đã là con cháu Hùng vương, An-dương Vương đâu sợ khó, sợ nguy hiểm. Đám anh hùng nói chuyện cho đến trời sáng, họ mới nhắm mắt dưỡng thần, vận khí lấy lại sức khỏe. Sáng hôm sau Nghiêm Sơn truyền đánh trống tụ tập các tướng. Tướng sĩ Hán trước đây đều dưới quyền chỉ huy của Nghiêm Sơn. Cách nhau một thời gian lâu dài, bây giờ giữa lúc họ bại trận, Nghiêm Sơn trở về với một đạo hùng binh, hàng trăm hào kiệt giúp sức. Họ nghiêm chỉnh đứng nghe lịnh, lòng tràn đầy hy vọng. Đặng Vũ trình bày: – Đạo quân Kinh-châu từ khi bại trận, án binh bất động để bổ sung, tướng sĩ đã phục hồi lại tinh thần. Nay nhờ Vương gia, binh lương đầy đủ. Sĩ tốt muốn ra trận phục thù. Trước mắt là ải Xuyên-khẩu kiên cố, phía sau Xuyên-khẩu là thành Bạch-đế. Binh tướng Xuyên-khẩu, ước 5 vạn bộ, hai vạn kỵ. Nghiêm Sơn gật đầu: – Bây giờ chúng ta ngồi xem Đặng đại tư-mã với Trưng Nhị trổ tài thần vũ. Tướng trấn thủ bên giặc là ai? Sầm Bành nói: – Là Công-tôn Thiệu, em ruột Công-tôn Thuật, tài kiêm văn võ. Về võ công y xử dụng đại đao, đoản đao đều thần sầu quỷ khốc. Về quyền cước, y xử dụng một pho chưởng pháp rất hùng hậu. Tôi đã đấu với y mấy trận, bất phân thắng bại. Y là một trong Thiên-sơn thất hùng. Phương-Dung giật mình hỏi: – Tôi nghe Nghiêm nguyên soái nói, Kiến-Vũ thiên tử khởi binh từ Hoài-dương, thì Đặng đại tư-mã cắp gươm theo hầu bên người, đánh thẳng về Lạc-dương. Võ tướng của Vương Mãng anh hùng là thế, mà không ai chịu nổi của Tư-mã lấy 10 chưởng. Sau Đặng đại tư-mã bị thua về tay tướng quân. Tiếp theo tướng quân đánh tới Kinh-châu, Xích-mi cõ công cao biết mấy, mà rút cục cũng thua tướng quân. Bên giặc nghe tên là khiếp đảm, thế mà y đấu ngang tay với tướng quân thì không phải tầm thường. Võ công y thuộc loại dương cương, ở đây chúng ta có sư thúc Phật Nguyệt xử dụng âm nhu có thể trị được. Còn hai người nữa, võ công dương cương tuyệt đỉnh là Khất đại phu với Đào tam ca, nhưng hai người không có ở đây. Vậy đối vối Công-tôn Thiệu, chúng ta cần đánh một trận bằng mưu trí, để y mất nhuệ khí và đánh baị y bằng võ công, để binh sĩ tin tưởng. Đặng Vũ muốn Trưng Nhị điều binh xem sao, nên bưng ấn kiếm đưa cho nàng. Y nghĩ rằng, nếu trận này thất bại, y đổ cho Nghiêm Sơn. Còn thành công thì y hưởng: – Xin nhờ Trưng cô nương trổ thần oai cho. Trưng Nhị không khiêm tốn cầm ấn kiếm nói: – Trước hết ta đánh cho giặc một trận để chúng mất nhuệ khí và lấy nhuệ khí cho quân ta. Các tướng Hán thấy một nữ quân sư tuổi chưa quá 25, khuôn mặt đẹp như ngọc, uy nghi lên trướng, chưa chi đã coi như thắng địch thì không tin cho lắm. Trưng Nhị đọc được nét mặt họ, nàng thản nhiên cầm bút viết một phong thư. "Trưng Nhị, lĩnh Quân sư đạo binh Kinh-Sở nhà Đại-Hán, thư cho Trường-sa vương. Tiểu nữ từ Lĩnh-nam, được Lĩnh-nam vương hạ cố mời làm Quân-sư cho Đại tư-mã. Vương gia lịnh cho tiểu nữ phải vào Thành-đô trước Tết, thưởng hoa xuân đất Thục. Vậy xin mời các vị anh hùng Thiên-sơn xuất thành quyết chiến một trận". Nàng nói với Hồ Đề: – Phiền sư muội cho chim ưng đưa vào thành dùm. Hồ Đề gật đầu, hú lên lanh lảnh. Một con chim ưng bay lên đậu vào tay nàng. Nàng đưa phong thư nó cắp vào mỏ. Nàng huýt sáo, ra hiệu chỉ chỗ, nó gật đầu bay bổng lên trên mây, hướng vào thành Xuyên-khẩu. Trưng Nhị thăng trướng ra lệnh: – Phía bắc thành Xuyên-khẩu có rừng Đại-xuyên, bây giờ mùa Đông, cây cỏ không lá khó phục binh. Nữ tướng Lê Chân dẫn một nghìn quân kỵ vá 50 thớt voi, vòng phía Đông sang Tây phục sau đồi. Đợi khi Đại tư-mã và Công-tôn Thiệu giao chiến, thế nào chúng cũng cho một đội kỵ binh xuất cửa Bắc đánh vào sườn phải của chúng ta. Khi giặc xuất thành, đợi cho chúng dàn quân đánh vào hữu quân của ta đang hồi kịch liệt, lập tức thả 50 thớt voi và phục binh đánh vào hậu quân chúng. Bị đánh bất ngờ, chúng cùng đường tất tử chiến. Bấy giờ phải mở một đường cho chúng chạy vào rừng. Ở đấy sẽ có đội quân bắt chúng. – Phía Nam thành Xuyên-khẩu có rừng Nghi-đô. Nữ tướng Trần Năng mang 50 thớt voi cùng 5000 quân phục tại đây. Khi Đặng đại tư-mã giao chiến với Công-tôn Thiệu, tất giặc xuất cửa thành phía Nam đánh vào tả quân của ta, tôi sẽ cho đốt pháo lệnh, bấy giờ xua voi và phục binh ra đánh. Giặc bị đánh trước sau thế nào cũng bỏ chạy vào rừng. Giặc đông quá không bắt hết đâu, phải dùng cung nỏ mà bắn. Giặc tất bị tử thương nhiều, bấy giờ hãy đổ quân ra mà bắt lấy. – Công-tôn Thiệu xuất thành, chúng ta chờ y ở Vu-sơn. Đặng đại tư-mã với tôi ở trung quân. Sư thúc Phật Nguyệt cầm tả quân, sư thúc Lại Thế-Cường cầm hữu quân. Chúng ta cùng xuất trận. Nếu Công-tôn Thiệu xuất trận, Đặng tư-mã sẽ đấu vối y. Dù thắng, dù bại, tôi cũng xuất quân và đội voi tràn sang trận địch. Quân giặc bị đánh bất thình lình, quân trong thành sẽ đổ ra cửa Bắc, Nam cứu viện. Sư bá Lại Thế-Cường chia quân ra làm đội, một nửa chống với tả quân địch, một nửa chống với đội quân cửa Bắc. Khi thấy mình núng thế thì đốt pháo lệnh, sư muội Trần Năng cho đổ phục binh ra đánh. Giặc thua tất chạy vào rừng. Hồ Hác sư đệ phục ở đây một đội binh mà bắt sống. Quân cửa Nam đổ ra thì sư thúc Phật Nguyệt sẽ chia quân làm hai, một nửa chống với hữu quân địch, một nửa đánh quân tiếp viện cửa Nam. Khi thấy mình núng thế thì đốt pháo lệnh lên. Sư muội Lê Chân sẽ đổ phục binh ra đánh vào hậu quân đội tiếp viện cửa Nam. Bấy giờ sư thúc Phật Nguyệt phải giết cho bằng được tướng địch để giặc mất nhuệ khí. Tôi có lời dặn chung: Khi giặc bị thua nên bắt sống càng nhiều càng tốt, tôi sẽ dùng đám quân sĩ này làm tan nát đoàn quân Thục còn lại. Các tướng thấy Trưng Nhị điều quân phải phép, đều ngẩn người ra khâm phục. Chính Đặng Vũ cũng ngẩn người, vì y đã thấy Phương-Dung điều quân. Y cho rằng Phương-Dung chỉ biết ước tính về chiến lược mà thôi, không ngờ bây giờ thấy Trưng Nhị chỉ huy quân tỏ ra thông thạo cả chiến thuật lẫn chiến lược. Trưng Nhị tiếp: – Lĩnh-nam vương gia và quân-sư Phương-Dung sẽ ra trước trận để khích lệ tướng sĩ. Vừa lúc ấy thì chim ưng trở về. Hồ Đề nói: – Nó đưa thư rồi. Đến chiều có sứ từ trong thành đưa thư qua. Trưng Nhị cầm lấy thư đọc. Thư viết: "Dã phu phái Thiên-sơn là Công-tôn Thiệu kính gửi Trưng Nhị cô nương thuộc phái Tản-viên, đất Lĩnh-nam". Nàng đọc xong đưa cho Phương-Dung xem: "Tôi là tên nhà quê, ở núi Thiên-sơn, cùng huynh trưởng xuất thân theo đòi nghiệp võ. Chúng tôi gồm bảy người sư huynh đệ đồng môn, thề cùng nhau dùng võ công giúp kẻ khó, cứu người nguy, trừ đạo tặc. Thời thế nhiễu nhương, vua thì hôn ám, quân thì nhũng lạm, giặc giã nổi lên tứ phương, Trăm họ khốn khổ, muốn sống không nổi. Vì vậy huynh trưởng tôi, tụ tập đệ tử chiếm vùng Kinh-châu, Ích-châu, Hán-trung, tổ chức thành một nước Nghiêu-Thuấn. Trước đây tôi có giao tình với sư huynh Đặng Thi-Sách rất hậu. Giữa hai người cùng một ý chí cầm gươm cứu dân. Nay chúng tôi đang làm, trong khiến trăm họ yên ổn, vua với tôi, quân với dân coi nhau như ruột thịt. Vì vậy tuy Ích-châu đất hẹp, dân nghèo, mà Quang-Vũ đem hùng binh trăm vạn, chia làm ba đạo, bao lần tiến vào đều bị đánh bại. Mới đây Tế-tác báo rằng Trưng cô nương cùng Lĩnh-nam vương xuất lĩnh hào kiệt phò Hán diệt Thục. Dĩ nhiên Lĩnh-nam nhân tài như rừng, như biển, cùng Hán diệt Thục thì Thục nguy vong. Thục nguy vong thì trăm họ Ích-châu lầm than, cũng chẳng đáng nói gì, nhưng khi Hán đã diệt Thục, liệu Lĩnh-nam có còn đứng vững được không? Lĩnh-nam vương có còn được tại vị hay không? Trước đây, thời Tây-Hán, Sở-vương Hàn Tín, công lao dường nào, cuối cùng cũng bị diệt tộc. Nay Lĩnh-nam vương công đã không bằng Hàn Tín, mà uy lại bao trùm thiên hạ, thì cái họa không xa là mấy. Kính cẩn mong cô nương nghĩ lại". Phương-Dung đọc xong chuyển cho Hồ Đề, Trần Năng cùng đọc. Trần Năng nói: – Tế tác của Thục thật tài. Chúng ta họp tại Quế-lâm, cơ mật bảo toàn, chỉ có chư tướng được biết thôi, thế mà Thục

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net