CHƯƠNG 27: VẠN PHÁP ĐANG BỐC CHÁY

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Một buổi chiều, Phật cùng đạo sĩ Ca Diếp đứng bên bờ sông Ni Liên Thuyền. Hai người tiếp tục cuộc đàm đạo. Đạo sĩ Ca Diếp nói với Phật:

– Hôm trước, sa môn Cồ Đàm có nói về sự quán chiếu các dòng hiện tượng sắc thân, cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức. Tôi đã thực tập và bắt đầu thấy rằng những cảm thọ và những tri giác của mình nói lên được giá trị của đời sống mình.

Tôi cũng đã thấy được rằng không có một yếu tố nào thường tại trong năm dòng hiện tượng đó cả.

Sa môn Cồ Đàm nói rằng nhận thức về sự có mặt của tự ngã là một nhận thức sai lầm, điều này tôi thấy có thể là đúng, nhưng tôi vẫn chưa hiểu được rằng nếu tự ngã không có thì ta cần gì phải nhọc công tu tập? Giải thoát cho ai, và ai là người được giải thoát?

Phật hỏi lại:

– Tôn giả Ca Diếp, ngài có công nhận rằng khổ đau là một sự thật không?

– Sa môn Cồ Đàm, tôi công nhận khổ đau là một sự thật.

– Ngài có công nhận rằng nỗi khổ đau nào cũng có nguyên do, cũng như vạn hữu trong vũ trụ, vật nào cũng do nhân duyên kết hợp mà thành?

– Tôi công nhận là những nguyên do của khổ đau có thật.

– Tôn giả Ca Diếp, khi những nguyên do của khổ đau có mặt thì khổ đau có mặt; vậy khi những nguyên do của khổ đau vắng mặt thì khổ đau có vắng mặt không?

– Tôi công nhận là khi nguyên do khổ đau không còn thì khổ đau cũng không còn.

– Này tôn giả, nguyên do của khổ đau là vô minh, tức là nhận thức sai lầm về thực tại.

Đời vô thường mà ta tưởng là thường, đó là vô minh.

Thực tại không có tự ngã mà ta tưởng là có tự ngã, đó là vô minh.

Từ vô minh, phát sinh ra tham vọng, giận hờn, sợ hãi, ganh ghét, và bao nhiêu đau khổ khác.

Con đường giải thoát là con đường quán chiếu thực tại để thực chứng được tự tính vô thường, vô ngã và duyên sinh của vạn hữu.

Con đường ấy là con đường diệt trừ vô minh.

Vô minh diệt thì phiền não diệt và khổ đau diệt. Đó là giải thoát. Cần gì phải có tự ngã mới có giải thoát.

Ca Diếp im lặng. Một lát sau, ông hỏi:

– Sa môn Cồ Đàm, tôi biết những điều ngài nói với tôi là những điều ngài thực chứng, chứ không phải chỉ là những suy tưởng của trí năng ngài.

Theo ngài, thì quả giải thoát chỉ có thể do công phu quán chiếu đem lại. Vậy tất cả những lễ nghi, thờ phụng và lời khấn nguyện đều là hoàn toàn vô ích hay sao?

Phật chỉ tay sang bên kia sông. Đạo sĩ nhìn theo ngón tay người. Phật nói:

– Tôn giả Ca Diếp, nếu có người đang đứng bên này sông mà muốn qua bên kia sông thì người ấy phải làm gì?

– Người ấy phải lội qua sông, nếu mực nước sông rất thấp. Trong trường hợp nước đầy như hôm nay, người ấy phải dùng thuyền bè để chèo qua bên kia sông. Nếu bơi giỏi, người ấy cũng có thể bơi sang bên kia sông.

– Đúng rồi, tôn giả Ca Diếp, nhưng giả dụ có người muốn qua sông mà không muốn lội, không muốn bơi, cũng không muốn chèo, trái lại chỉ đứng bên này sông mà cầu khẩn bờ bên kia, hy vọng bờ bên kia sẽ qua tới bên này cho mình bước lên, thì tôn giả nghĩ sao?

– Tôi sẽ nói rằng đó là một người không thực tế.

– Cũng như vậy thôi, tôn giả Ca Diếp! Nếu không tu tập quán chiếu để diệt trừ vô minh, và các phiền não khác thì ta không đạt tới bến bờ giải thoát được, dù ta có tế lễ khẩn cầu suốt cả cuộc đời ta.

Đạo sĩ Ca Diếp bỗng nhiên sụp lạy dưới chân Phật. Ông khóc nức nở.

Ông nói:

– Sa môn Cồ Đàm, con đã lầm lỡ, hết hơn một nửa đời người. Giờ đây xin thầy chấp nhận con là đệ tử của thầy để con có cơ duyên học hỏi và tu tập con đường giải thoát.

======

Con về nương tựa Phật, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức."

Một hôm, sau giờ khất thực tất cả mọi người được lệnh đi về tụ họp trên đỉnh núi Tượng Đầu ở Gayasisa, cách đó không xa. Chín trăm vị khất sĩ ngồi thọ trai im lặng và trang nghiêm cùng với Phật và ba anh em Ca Diếp. Buổi thọ trai chấm dứt, mọi người vây quanh Phật. Nghiêm trang ngồi trên một tảng đá, Phật cất tiếng dạy chín trăm vị khất sĩ:

"Này các vị khất sĩ, tất cả vạn pháp đều đang bốc cháy.

Cái gì đang cháy?

Sáu loại giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý đang bốc cháy.

Sáu loại đối tượng của giác quan là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp đang bốc cháy.

Sáu loại nhận thức là cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái xúc chạm và cái suy tư cũng đang bốc cháy.

Bốc cháy bằng thứ lửa nào?

Bốc cháy bằng lửa tham dục, lửa hận thù, lửa ảo vọng.

Tất cả đang bốc cháy theo với những cái khổ của sinh, già, bệnh chết, với đau thương, phiền muộn, lo lắng, sợ hãi, và thất vọng.

Này các vị khất sĩ, mọi cảm thọ cũng đang bốc cháy, dù đó là khổ thọ, lạc thọ, hay xả thọ.

Cảm thọ phát sinh từ những điều kiện giác quan, đối tượng và sự xúc chạm.

Cảm thọ cũng đang bốc cháy vì ngọn lửa tham dục, hận thù, và ảo vọng.

Cảm thọ cũng đang bốc cháy theo với những cái khổ của sinh, già, bệnh, chết, với đau thương phiền muộn, lo lắng, sợ hãi và thất vọng.

Này các vị khất sĩ, các vị đừng để tự bốc cháy theo ngọn lửa của tham dục, của hận thù và của ảo vọng.

Các vị phải thấy được tính cách vô thường và duyên sinh của mọi pháp để đừng làm nô lệ cho dòng sinh diệt của giác quan, đối tượng và cảm thọ".

Gần một ngàn vị khất sĩ ngồi nghe đều cảm thấy tâm thần rúng động khi Phật nói về lửa.

Họ rất hoan hỷ khi thấy mình đã tìm ra được con đường tu học mà công phu quán chiếu là động lực duy nhất đưa đến giải thoát.

Niềm tin phát sinh trong tâm tư của mọi người.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net