TẬP 29

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tập 29

Chào tất cả quý vị! Sáng nay chúng ta giảng đến câu tín nghĩa, đạo nghĩa giữa bạn bè với nhau. Cũng nhắc đến giữa quan hệ bạn bè, nên khuyên bảo nhau, quan tâm nhau, khen ngợi và tán thán nhau. Thật ra khi quý vị khen ngợi người khác, thì bản thân mình cũng được thơm lây.

Câu tiếp theo là "bất ngôn gia xú". Câu cuối cùng là "thông tài chi nghĩa". Tài được chia làm hai loại là nội tài và ngoại tài. Nội tài là dùng sức lực của mình, trí huệ, kinh nghiệm của mình để giúp đỡ người khác. Tục ngữ cũng nói: "giúp lúc khó không giúp cái nghèo". Các bạn! Nghèo là gì? Không có tiền mới gọi là nghèo sao? Họ không có tiền rồi cũng có thể có tiền, chỉ cần họ có chí khí, chỉ cần họ chịu học hỏi. Cho nên, sợ nhất là ngay cả chí khí, ngay cả tâm học hỏi họ cũng không có, đó mới chính là nghèo. Khi đối phương có thái độ như vậy, nếu quý vị đem tiền đến giúp họ, thì họ càng lúc càng ỷ lại, thậm chí càng lúc càng cảm thấy đó là lẽ đương nhiên. Như thế chúng ta nghĩ là giúp họ nhưng thật ra đã hại họ. Cho nên giúp người khác cũng phải dùng trí huệ, bằng không là sẽ lấy thiện tâm làm việc ác.

Ví dụ nói, họ không có trách nhiệm đối với gia đình, thường đi nhậu nhẹt, rồi đến mượn tiền quý vị, vậy quý vị có cho họ mượn không? Không cho. Nhưng quý vị cũng không được đuổi họ đi, bởi như vậy sẽ gây kết oán. Quý vị nên mời họ vào nhà ngồi một chút, chỉ cần quý vị rất có nguyên tắc, thì họ sẽ không đụng được tiền của quý vị. Ngồi một chút nhưng cũng phải nói với họ một vài câu đạo lý làm người, thậm chí cho họ một số kinh nghiệm thực tế trong công việc của quý vị, hoặc là kinh nghiệm rèn luyện bản thân. Nói với họ để họ có được những tích lũy trong trí huệ, hoặc là trong năng lực làm việc của mình. Đương nhiên là phải chuẩn bị một quyển Đệ Tử Quy đưa cho họ. Người lớn rất sĩ diện, quý vị không nên nói: anh phải học hết quyển sách này cho tôi, quyển sách này anh chưa học hết. Quý vị không nên nói như vậy, chúng ta phải khéo dùng phương tiện mà nói: Anh có đứa con trai, con trai của anh rất đáng yêu. Tóm lại quý vị cứ lựa lời hay mà nói. Con của anh rất đáng yêu, quyển sách này mà cho con anh học, thì chắc chắn sau này sẽ rất có triển vọng.

Nhưng các bậc Thánh nhân của chúng ta nói, giáo dục là "thượng sở thí, hạ sở hiệu". Chúng ta làm bậc cha mẹ mà, phải làm gương tốt cho con cái thấy. Quý vị đừng nên nói họ không phải là tấm gương tốt, đúng không? Khuyên họ làm như vậy, tin rằng từng chút từng chút cũng khiến cho họ dần dần chuyển biến quan niệm. Điều này là đến từ sự tin tưởng "nhân chi sơ tánh bổn thiện" của chúng ta. Tâm chân thành tâm như vậy, tâm bình đẳng như vậy, chúng ta mới đảm nhiệm được.

Ở đây có "thông tài chi nghĩa". Chữ tài này không chỉ là tiền tài, mà còn chỉ cho những kinh nghiệm, trí huệ của chúng ta. Đợi đến lúc họ học được những kinh nghiệm, phương pháp, trí huệ này rồi, tin rằng họ cũng có thể tổ chức tốt gia đình của mình. Cho nên, sự giúp đỡ này của chúng ta, không chỉ giúp nhất thời, mà còn giúp cả cuộc đời của họ. Đây là chúng ta nói đến giữa quan hệ bạn bè, không cần ngôn ngữ đạo nghĩa, tín nghĩa.

Ngoài những nghĩa vụ trong quan hệ ngũ luân này ra, chúng ta cũng cần hồi tưởng lại, sở dĩ ngày nay chúng ta có lời giáo huấn của Thánh Hiền, là từ đâu mà có? Là nhờ mấy ngàn năm mồ hôi nước mắt của các bậc Thánh nhân, trải qua rất nhiều điều gian khổ, mới lưu lại được những trí huệ tinh túy như vậy, tuyệt đối không phải ngẫu nhiên mà có.

Nhiều năm về trước, tôi nghe Thầy của tôi - Hòa thượng Tịnh Không nói về một đoạn đạo lý. Thầy nói tứ đại cổ văn minh trên toàn cầu, bây giờ chỉ còn lại một nước, đó là nước nào? Là nước ta, đáp án rất chính xác. Có phải lão tổ tông của tứ đại cổ văn minh này, ở trước mặt thần minh, sau đó thần minh nói: các vị đến rút thăm, ai rút được thì không bị diệt vong, chẳng ai muốn diệt vong cả. Lão tổ tông của nước ta rút được, tốt quá rồi nước mình không bị diệt vong, có phải như vậy không? Có quả ắt có nhân. Cho nên vì sao các nước cổ văn minh khác diệt rồi, mà nước ta không diệt? Điều này tuyệt đối không phải ngẫu nhiên. Cho nên, Thầy tôi tự thuật một đoạn này, khiến cho tôi tập trung toàn bộ lực chú ý, bởi vì chưa bao giờ tôi nghĩ đến vấn đề này. Thầy lại nói tiếp, vì các bậc tổ tông biết quá nhiều về cuộc đời. Ví dụ nói "nhân sanh thất thập cổ lai hy", rất nhiều người sống đến 40 tuổi, 50 tuổi, đột nhiên quay đầu lại xem con đường mà mấy mươi năm mình đã đi qua, họ sẽ có cảm xúc, họ nói: nếu như cuộc đời tôi được quay trở lại một lần, nhất định tôi không phạm nhiều sai lầm như vậy. Nếu như cuộc đời này đâu đâu cũng có sự hối tiếc như vậy, thì không viên mãn rồi.

Vì tổ tông của chúng ta biết rằng, nếu như không truyền thừa trí huệ, thì cuộc đời của con người có thể phải bắt đầu tìm lại từ đầu. Cho nên, vì con cháu đời sau của họ, thậm chí bởi yêu thương tất cả nhân loại, mà các ngài hy vọng có thể đem trí huệ mấy ngàn năm, truyền thừa lại cho chúng ta. Vì thế đã phát minh một công cụ truyền thừa trí huệ, gọi là cổ văn. Một người làm được một việc lớn lao, nhất định là bắt đầu từ tâm niệm đó. Cho nên, nếu có tấm lòng từ ái này thì sẽ có phương pháp tốt. Các bậc tổ tông của chúng ta quan sát được, nếu như ngôn ngữ và văn tự không phân khai thì không thể truyền lại được. Ví dụ nói, chúng ta suy nghĩ một chút, nước La Mã có lưu lại văn tự hay không? Có. La Mã còn lưu lại rất nhiều văn chương. Bây giờ ai đọc được? Các nhà lịch sử học chưa chắc đọc đã hiểu. Nhà khảo cổ học cũng vậy. Lưu vực con sông này có lưu lại văn tự không? Có. Bây giờ chẳng mấy người đọc được, ngay cả chữ cũng không đọc được, thì không thể hiểu được ý nghĩa trong đó.

Tôi đã từng trò chuyện với một người bạn, anh ta nói rằng anh đã xa quê hương hai mươi mấy năm, khi trở về, nói chuyện với những người thân, có rất nhiều từ anh không hiểu, hoặc là họ không hiểu anh nói gì. Cho nên, ngôn ngữ 20 năm đã có chút thay đổi, huống gì 2000 năm thì thay đổi quá nhiều rồi. Ví dụ văn viết và văn nói hoàn toàn không giống nhau, vậy người ở 2000 năm về trước viết văn, quý vị hiểu được sao? Chắc chắn quý vị không thể hiểu được rồi. Cho nên phải biết điều này, tất cả những người viết văn đều không dùng ngôn ngữ lúc đó, vậy họ dùng ngôn ngữ gì? Là cổ văn. Cho nên mấy ngàn năm, tất cả văn chương trí huệ, đều dùng cổ văn viết ra. Khi chúng ta hiểu được cổ văn, thì chúng ta có thể trực tiếp làm đệ tử của Khổng Tử 2000 năm trước rồi, cũng có thể làm đệ tử của Mạnh Tử nữa chứ. Cổ văn là siêu việt thời gian không gian, là học tập trí huệ của Thánh Hiền. Cho nên, các bậc tổ tông của chúng ta cho con cháu đời sau của họ một ân đức lớn nhất, chính là cổ văn. Khi tôi nghe đến đây, trong lòng cảm thấy rất xấu hổ, bởi vì ngữ văn của tôi không tốt. Khi tôi học cấp ba, thường đến tiết cổ văn là lúc nào cũng ngủ gục. Nghe xong những lời này của Thầy, đột nhiên cảm thấy các bậc tổ tông đã dùng sinh mạng của họ để thành tựu chúng ta, mà chúng ta lại vứt nó ở đâu? Vứt vào trong thùng rác, nên lúc đó nước mắt tôi liền chảy ra, đây là nước mắt xấu hổ. Bình thường bạn bè giúp chúng ta bưng ly trà, thì chúng ta rối rít cảm ơn họ, nhưng các bậc tổ tông đã mấy ngàn năm, dùng sinh mạng của mình để thành tựu đàn hậu thế chúng ta, nhưng chúng ta không thấy được. Cho nên, lúc đó tôi khởi lên một ý niệm, là nhất định phải cố gắng học tập cổ văn, cố gắng học tập kinh điển của Thánh Hiền. Sau đó tôi mới bắt đầu mở Đệ Tử Quy, mới bắt đầu mở Luận Ngữ ra, đột nhiên cảm nhận được, dường như nó không quá khó như trước đây, đột nhiên cảm giác như tôi với nó khoảng cách như thế nào? Xích lại gần, đọc câu nào thì thích câu đó, sao mà tôi nghĩ xa như vậy? Nhìn xa trông rộng. Vì sao trước đây cảm thấy rất khó? Vì sao khi rơi nước mắt rồi lại thấy nó không khó nữa? Từ sự việc này, tôi cũng cảm nhận được một câu nhắc nhở: "tất cả pháp từ tâm tưởng sanh".

Các bạn! Chướng ngại nằm ở đâu? Ở tâm chúng ta, khi mình cảm thấy rất khó, thì nó rất khó, khi quý vị buông bỏ những chướng ngại này đi, thì nó không còn khó nữa. Cho nên xác thực, khi tâm niệm của chúng ta sám hối rồi, thì tâm niệm đó sẽ thật sự khởi lên sứ mệnh, nó rất tương ưng với những kinh điển này. Cho nên các bạn! Tôi có thể học tốt cổ văn, thì nhất định quý vị sẽ học tốt hơn tôi nữa.

Phương pháp học cổ văn cũng rất đơn giản. Thầy Lý Bỉnh Nam đã từng nói, chỉ cần quý vị thuộc được 50 bài cổ văn, thì có thể đọc cổ văn rồi. Nếu quý vị thuộc được 100 bài cổ văn, thì quý vị có thể viết được cổ văn. 50 bài có khó không? Không khó. Đệ Tử Quy đã là mấy bài rồi? Không nhiều như vậy đâu. Đệ Tử Quy chúng tôi đếm chỉ 6 bài : Nhập Hiếu, Xuất Để, Cẩn, Tín, Ái Chúng, Thân Nhân thì ngắn hơn. Với lực học văn dư thừa của quý vị, quý vị phải đọc 18 chương Hiếu Kinh. Kỳ thực đọc 50 bài cổ văn không khó, 100 bài cũng không khó, quan trọng nhất là ở chỗ bền lòng, "khoan vi hạn, khẩn dùng công, công phu đáo, trệ tắc thông". Cho nên, một tuần lễ chúng ta thuộc được 300 chữ là được rồi, 300 chữ thì không nhiều lắm. Đệ Tử Quy là 1080 chữ, mỗi tuần chúng ta thuộc 300 chữ, như vậy trong một năm thuộc được bao nhiêu chữ? Hơn một vạn chữ, vậy là thực lực quá hùng hậu rồi. Cho nên xác thực, sự thành tựu đều ở chỗ kiên trì, bền bỉ. Chỉ cần kiên trì được một, hai tháng, bảo đảm quý vị càng học càng hoan hỷ. Bởi vì nghĩa lý của cổ văn vô cùng sâu rộng, mỗi lần quý vị đọc thì sự hiểu biết cũng đã khác đi một chút. Tùy theo thực tiễn của chúng ta, tùy theo trí huệ của chúng ta, có thể càng lúc cảm nhận càng sâu rộng.

Cho nên, hôm nay chúng ta làm con cháu của Viêm Hoàng, chúng ta có tín nghĩa, có đạo nghĩa thì phải đem trí huệ truyền thừa lại. Muốn truyền trước tiên phải như thế nào? Phải "thừa". Gọi là "tiếp nối người trước, mở mang cho đời sau", không có thừa thì không thể truyền được. Không có thừa thì sẽ truyền sai. Cho nên, chúng ta đã có sứ mệnh này, thì phải cố gắng làm tự bản thân.

Nhiều bạn nói rằng: thầy Thái à! Phải giống như thầy mới làm được. Kỳ thật đây là do phân biệt. Đại Học cho chúng ta lời nhắc nhở rằng: "Người xưa muốn làm sáng tỏ Minh đức trong thiên hạ thì trước phải giữ yên đất nước. Muốn giữ yên đất nước, trước phải giữ yên gia đình. Muốn giữ yên gia đình, trước phải sửa đổi thân mình. Muốn sửa đổi thân mình, trước cái tâm phải ngay thẳng. Muốn cái tâm ngay thẳng, trước phải giữ ý chân thành. Muốn cho ý chân thành, trước phải đạt đến chỗ hiểu biết. Đạt đến chỗ hiểu biết nằm ở chỗ trừ khử vật dục". Đây đã chỉ ra toàn bộ phương pháp tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Có quy định ngành nghề nào mới được làm không? Không có. Mọi ngành nghề, mọi lứa tuổi đều có thể làm được. Cho nên trước hết phải làm từ "cách vật chí tri". Cách vật là cách trừ vật dục, tức là trừ bỏ những thói quen xấu, bây giờ có thể làm được. Khi dục vọng của chúng ta nhẹ đi rồi, tâm chí sáng suốt, thì tự nhiên tâm thành ý chánh. Bắt đầu sửa đổi từ ngôn ngữ hành vi của chính mình. Khi chúng ta sửa đổi, thì gia đình chúng ta sẽ thay đổi, nơi làm việc của cũng sẽ thay đổi. Như thế quý vị mới xứng đáng là học trò của Khổng Tử.

Giáo dục của các bậc Thánh Hiền rất hay. Vì vậy mỗi người ở trong thời đại lớn này, đều có thể làm tròn trách nhiệm của con cháu Viêm Hoàng.

Từ quan hệ ngũ luân, chúng ta tìm được góc độ của nhân sanh, định vị của nhân sanh. Khi đôi chân của chúng ta đứng vững, thì tự nhiên có thể bước đi vững vàng, để cho con người từng bước, từng bước đi thật vững chãi, thật có giá trị.

Chúng ta xem tiếp, cùng nhau đọc qua một lượt nhé: "Phàm xuất ngôn, tín vi tiên, trá dữ vọng, hề khả yên, thoại thuyết đa, bất như thiểu, duy kỳ thi, vật nịnh xảo, gian xảo ngữ, uế ô từ, thị tỉnh khí, thiết giới chi".

"Phàm xuất ngôn, tín vi tiên". Chúng ta phải nói lời đáng tin, đối với mỗi lời nói của mình đã phát ra, thì tuyệt đối phải giữ trong lòng, phải thực hành, phải thực hiện.

Ở thời đại Xuân Thu có một người tên là Quý Trát. Lần nọ vua phái ông ta đi sứ sang nước Lỗ, trên đường đi, Quý Trát phải đi qua nước Từ. Ở thời đại Xuân Thu có rất nhiều nước, gọi là 8 trăm chư hầu. Cho nên, trong quá trình đi cũng phải đi qua những nước này. Đến nước Từ, vua nước Từ mời ông ăn cơm, mở tiệc chiêu đãi ông. Khi ngồi xuống ăn cơm, vua nước Từ từ đầu đến cuối không nhìn mặt ông, mà chỉ nhìn chằm chằm vào thanh bảo kiếm mang trên người của ông ta. Vì thanh bảo kiếm đó rất đẹp, cho nên vua nước Từ không giấu được sự ưa chuộng thanh bảo kiếm đó của mình. Trong lòng Quý Trát liền nghĩ rằng: ông vua này có vẻ rất thích thanh bảo kiếm này của mình. Nhưng trước đây bảo kiếm được tượng trưng cho điều gì? Tượng trưng cho địa vị. Cho nên, đi sứ qua các nước khác, lễ nghi bắt buộc là phải mang thanh kiếm này. Vì thế lúc này không thể tặng cho vua được, phải đợi đến khi hoàn thành nhiệm vụ ông sẽ tặng cho vua, trong tâm Quý Trát liền khởi lên ý niệm như vậy.

Sau khi đi sứ sang nước Lỗ thuận lợi rồi, trở về lại đi qua nước Từ, ông ta liền đến thăm vua nước Từ rồi lấy bảo kiếm tặng cho vua. Nhưng điều không may đã xảy ra, trong khoảng thời gian này vua nước Từ đã qua đời. Sau khi Quý Trát biết được chuyện này, liền đến trước mộ phần của vua, tế bái vua, tế bái rồi lại thuận tay đem thanh bảo kiếm treo lên cây ở bên phần mộ, rồi đi. Đám tùy tùng gọi ông ta lại: Chủ nhân à! Người làm như vậy có quá lắm không? Vì Người chưa từng đích thân hứa tặng cho vua nước Từ thanh bảo kiếm này. Vả lại dù Người có hứa với ông ấy, thì ông ấy cũng đã chết rồi. Quý Tráp liền nói với đám thuộc hạ của ông rằng: tâm của ta đã hứa tặng cho ông ấy từ lâu rồi, sao có thể vì ông ta chết rồi mà ta làm trái với tâm của mình? Ông nói một câu rất cảm động: "thỉ ngô tâm dĩ hứa chi, khởi dĩ tử bội ngô tâm tai". Sao có thể dùng cái chết của họ làm trái với lương tâm tôi, làm trái với lời hứa của tôi được. Cho nên, chữ tín của người xưa không chỉ ở trên ngôn ngữ, mà ngay cả trong ý niệm họ cũng không muốn làm trái. Không muốn làm trái người khác, họ cũng không muốn làm trái với lương tâm của chính mình. Thấy tấm gương người xưa như vậy, chúng ta phải cố gắng học tập theo họ.

Năm ngoái, tôi ở nhà cô Dương nửa năm. Buổi sáng nọ, cô nói rằng, hôm qua cô nằm mộng, mộng thấy có một cái hầm rất sâu, hầm đó như thế nào? Là một màn đen kịt. Cô đi vào trong đó thấy có rất nhiều tủ sách, mở tủ sách đó ra, trên mỗi quyển sách là một lớp bụi dày, phủi phủi lớp bụi đó đi, cô xem thì thấy đó là Tứ Thư, Ngũ Kinh. Cô Dương nằm mơ như vậy, cô liền khởi lên một ý niệm, suốt cuộc đời này nhất định phải dốc hết tâm lực hoằng truyền văn hóa. Vì có ý niệm như vậy, nên cô không muốn làm trái với ý niệm này. Sau này đó có cơ hội đến Hải Khẩu phát triển, cô dẫn tôi đi cùng. Rồi lên Sơn Đông Khúc Phụ càng cảm nhận được nền văn hóa đã thoái thất quá nghiêm trọng. Cho nên, ở Bắc Kinh, cô thành lập trang web Đại Phương Quảng Văn Hóa Công Ích. Chữ tín mà cô giữ không phải là giấy trắng mực đen, cũng không phải ngôn ngữ đối với bất cứ người nào, mà là ở tâm của chính mình, ở lời hứa của chính mình. Những quyển sách dính nhiều bụi bặm này, phải nhờ vào mỗi đứa cháu như chúng ta, dùng chân thành phủi sạch sẽ. Không những phủi sạch, mà còn cần điều gì? Phải mở ra đọc. Rồi sao nữa? phải cố gắng thực hành. Không phải chỉ đọc mà cần phải thực hành nữa.

Chúng ta hồi tưởng lại một chút, ban đầu cổ văn bị phế bỏ, nguyên nhân là do không có ai học cổ văn hay sao? Có đúng vậy không? Không đúng, trái lại là do những người học nhiều cổ văn lại phế bỏ nó. Cho nên. đọc sách nhiều chưa hẳn có ích. Đệ Tử Quy nói: "bất lực hành, đãn học văn. Trưởng phù hoa, thành hà nhân". Những thạc sĩ Trung văn, tiến sĩ Trung văn chỉ đem lại tăng trưởng phù hoa, đem lại danh dư lợi dưỡng cho họ. Khi họ không có thực chất, thì họ hiểu những đạo lý đó chính là không, là hư. Lâu ngày như vậy thì ngôn ngữ và hành vi của họ càng hành càng xa. Khi họ đi dạy văn hóa Trung Quốc, thì người nhận sự giáo dục này trong tâm của họ có cảm thọ như thế nào? Là nói một đường làm một nẻo. Đây không phải là hoằng dương văn hóa, mà là gì? Là hủy báng văn hóa. Thực sự cổ văn gặp phải sự trắc trở như vậy, vấn đề không phải ở chỗ những người phế bỏ cổ văn. Những người phế bỏ đó chỉ là tia dẫn lửa. Vậy nguyên nhân chính là ở đâu? Chúng ta phải tìm cho ra nguyên nhân chính, không nên đẩy trách nhiệm ra ngoài. Nguyên nhân chính ở chỗ, người đọc sách không thực hiện lời nói đi đôi với việc làm. Ví dụ những người đọc sách có thể thực hành được Đại Học, Trung Dung và Đệ Tử Quy, thì những người tiếp xúc với họ có muốn hủy bỏ văn hóa này không? Không thể có! Thậm chí họ sẽ cùng với quý vị như thế nào? Noi theo quý vị. Cho nên, chúng ta thấy mấy ngàn năm, những người tuân theo lời giáo huấn của Thánh Hiền này, đều được vạn dân ủng hộ yêu mến.

Như ở Hải Khẩu vào triều đại nhà Minh xuất hiện một danh thần tên là Hải Thụy. Chúng ta đều đã nghe qua "Hải Thụy bãi quan". Tôi đến một khu vực nào, cũng rất thích đi thăm viếng những danh nhân nơi đó, những người được lưu danh trong sử sách. Bởi vì họ đều dùng tâm của mình viết lại lịch sử, đều dùng tâm của mình phụng hiến cho quốc gia xã hội, chúng ta có thể "kiến nhân thiện, tức tư tề". Cũng có thể hiểu được họ ở trong khu vực này có sự ảnh hưởng ngấm ngầm. Cho nên chúng tôi vào đến mộ của Hải Thụy, nhìn thấy hai hàng chữ vô cùng chấn động, Hải Thụy nói: "phấn thân toái cốt toàn bất nguyện, chỉ lưu thanh bạch tại nhân gian". Các bạn! Từ hai câu nói này, quý vị có thể cảm nhận được ông ta là người đức hạnh như thế nào không? Vô cùng thanh liêm. Cho nên, khi tôi thấy được khí tiết của Hải Thụy như vậy, lại xem lời giới thiệu về cuộc đời của ông, xem rồi rất cảm động. Vì chỉ cần Hải Thụy đến một địa phương nào đó làm quan, thì tất cả tham quan ô lại và ác bá cường hào, mặc dù ông chưa xuất hiện nhưng những người này đều nhanh chóng "chuồn là thượng sách". Vì họ biết Hải Thụy là người ngay thẳng chính chính trực. Cho nên, chỉ cần ông đến địa phương nào, thì nhân dân ở đó đều khắp chốn mừng vui.

Vì thế một người thật sự thực hiện được lời dạy của Thánh Hiền, thì họ có bị phản đối không? Không thể có chuyện này. Nên khi Hải Thụy nhận chức tại Nam Kinh, và qua đời ở đó. Sau khi ông qua đời, người xưa chú trọng lá rụng về cội, nên đưa Hải Thụy từ Nam Kinh về Hải Nam. Ở Nam Kinh khi linh cữu bắt đầu di chuyển, tất cả mọi người đều mặc hiếu phục, như cha mẹ qua đời, bi thương giống như mất đi cha mẹ vậy. Từ đây ta thấy được "đắc đạo gia đa trợ", người nỗ lực thực hành chánh đạo, nhất định thu phục được lòng người. Cho nên, vì sao văn hóa cổ văn của chúng ta bị phá hủy, không nên trách người khác, mà trách tất cả những người đọc sách Thánh Hiền chúng ta, không diễn tốt nó. Vì vậy, chỉ cần bây giờ chúng ta, học một câu làm được một câu, tin rằng nhất định có thể xoay chuyển được sự hiểu lầm về văn hóa của người đời, tiến một bước, họ còn có thể thực hiện, học tập làm theo.

Khi trong tâm của chúng ta khởi lên ý niệm, phải giúp gia đình, phải giúp xã hội, phải giúp tổ tông, thì chúng ta phải tuân thủ lời hứa của mình. Ngôn ngữ cũng không thể dùng để lựa chọn đối tượng, giữ chữ tín nhất định phải buôn bán công bằng, không phải làm nghề buôn bán mới buôn bán công bằng, mà là đối đãi với tất cả mọi người, chỉ cần nói được làm được, bằng không thì quý vị trước phải suy nghĩ kỹ càng rồi hãy đồng ý. Gọi là "sự phi nghi, vật khinh nặc, cẩu khinh nặc, tiến thoái thố". Phải suy nghĩ rõ ràng, khi đã đồng ý rồi thì không được hối hận.

Thời nhà Hán có một vị thái thú tên là Quách Cấp. Một hôm, ông đi qua khu vực quản lý của ông, đến địa phương này, có rất nhiều đứa nhỏ, những đứa nhỏ khoảng mười mấy tuối này vây quanh chào ông, những đứa nhỏ ngây ngô nói: thái thú! Lần sau, khi nào ông mới đến đây? Quách Cấp cũng rất kính trọng những đứa nhỏ này, nên những lời chúng hỏi ông cũng không thờ ơ, ông bắt đầu đếm, có lẽ ngày nào đó trong vài tháng sau ông đến tuần tra ở đây, nên nói với chúng ngày đó ông sẽ đến. Cuối cùng, những đứa nhỏ này tiễn ông xong rồi ai về nhà nấy. Lần sau ông đến tuần tra ở địa phương này, nhưng lại đến sớm hơn ông nói một

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net