PHẦN II- XLÀM SỞ THUỶ LỢI MIỀN TÂYTRÊN XE LỬA, NHỚ LẠI LẦN CẤT MỘ CHA TÔI

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Mười một giờ trưa ngày rằm tháng chạp năm Giáp Tuất (19-1-1935) mẹ tôi, em trai và một người em họ tôi đưa ra ga Hàng Cỏ để đáp xe lửa vô Nam.

Hôm đó trời u ám, mưa phùn lất phất. Buồn vô hạn. Ở sân ga mẹ tôi chỉ dặn tôi vào Nam thế nào cũng phải đi thăm ngay bác Ba tôi ở Tân Thạnh rồi viết thư cho người biết để người yên lòng.

Anh Đỗ văn Hách cũng được bổ vào cùng một sở với tôi và cùng đi một chuyến xe. Toa xe lửa hạng ba của chúng tôi vắng, chỉ có hai anh em tôi và một người cháu gái của anh Hách bồng con nhỏ, tiễn anh tới Nam Định. Chúng tôi chào hỏi nhau ít câu, rồi để họ nói chuyện với nhau, tôi ngồi riêng ra, nhìn cánh đồng bằng phẳng, chưa trồng gì, còn trơ chân rạ, với làng xóm, bụi tre, cây đa, vài mái đình chùa ở xa xa mà nhớ lại lần cải táng cha tôi từ ngoại ô Hà Nội về Phương Khê, hồi tháng tám âm lịch bốn tháng trước.

Mẹ tôi đã tính toán từ trước, đợi tôi thi đậu rồi mới cải táng, nhân dịp đó bảo các anh con bác tôi làm cỗ cúng tổ tiên và mời mấy người thân trong họ, mấy bà lí, bà chánh trạc tuổi mẹ tôi ở trong làng và một làng bên tới dự. Mẹ tôi lại biết tôi không khéo ăn nói, nên nhờ một người em cháu cô cháu cậu với tôi, con cả chú Ba Đỗ, lớn tuổi mà có vẻ nho nhã, đứng ra tiếp khách thay tôi.

Hôm đó thật vui. Mẹ tôi và mấy anh em tôi đi từ làng Thịnh Hào rất sớm, xách một cái bồ nhỏ trong chứa hài cốt cha tôi, ra ô Câu Giấy đón xe hàng đi Sơn Tây. Gió thu hây hẩy, hai bên đường ruộng lúa mơn mởn, chúng tôi vừa đi vừa ăn cốm Vòng dẻo, thơm, ngọt. Không có món điểm tâm nào thanh bằng thứ đó. Xế trưa tới Phương Khê, sắp hài cốt vô một tiểu sành rồi chôn trong một thửa ruộng của nhà, trên đồng đỗ, nhìn ra bờ đê, chôn xong xây gạch bốn bên liền. Công việc chuẩn bị kĩ từ trước, khoảng ba bốn giờ chiều đã xong, rồi về nhà thờ làm lễ, tiếp khách khứa. Tôi thấy hôm đó mẹ tôi rất vui, rộng rãi với mọi người. Người thật khéo xử, ghét cái danh hảo, cho nên tôi thi đậu mà người không khao vọng, mà chỉ nhân việc cất mộ cha tôi, trình với vong linh tổ tiên, và họ hàng, làng mạc bên chồng rằng người đã ở vậy nuôi con trên mười năm và con người đã thành tài.

Ngồi trên xe lửa, ôn lại từng ngôn ngữ, cử chỉ của người hôm đó tôi càng phục: người không được học mà tính toán việc gì cũng chu đáo, xử sự đàng hoàng, khiêm tốn, mềm mỏng mà tự trọng, bà con bên chồng không ai không kính.

Rồi tôi lại nghĩ sau khi tôi đi, cảnh nhà còn buồn hơn nữa. Cả ba em tôi đều không có nghề gì, em trai tôi lại lông bông, không biết mẹ tôi sẽ tính sao. Tôi định vào làm trong Nam ít năm rồi xin đổi về Bắc, cưới vợ ngoài đó, chỉ có cách đó nhà mới vui hơn được. Tôi tưởng người cũng mong vậy. Không hiểu sao một năm sau người lại có ý cho tôi ở luôn trong Nam.

HÀ NỘI - SÀI GÒN – LONG XUYÊN

Xe tới Thanh Hóa thì tối, nên tôi không được thấy phong cảnh miền bắc Trung phần. Từ Tourane khí hậu khác hẳn: trời nắng ấm, trong trẻo, không ảm đạm như ở Bắc, chúng tôi lên xe ca (car) vì khúc này chưa có đường xe lửa. Trong cuốn Tương lai ở trong tay ta, tôi đã ghi cảm tưởng và nỗi lòng tôi như sau:

"Hồi đó, một ngày gần Tết, một ông bạn đồng song và tôi ngồi chiếc xe "ca" vượt cảnh núi trùng trùng điệp điệp trên quốc lộ Số 1 để vào Sài Gòn nhận việc, vì con đường xe lửa "xuyên Đông Dương" chưa hoàn thành. Qua những rừng dừa ở Tam Quan, ở Sông Cầu, rồi leo ngọn Đèo Cả, nhìn xuống biển khơi một màu ngọc thạch, tôi thấy trong lòng nổi lên một khúc nhạc tựa như khúc Xuân tình. Dưới con mắt tôi, cái gì cũng mới: từ trời biển, núi sông đến cô bạn đồng hành cười luôn miệng và giọng líu lo như tiếng chim, nhất thiết đều khác hẳn với quê hương chúng tôi mà tươi sáng quá chừng! Lòng tôi cũng mới: từ nay bắt đầu bước vào đời, được bay bổng như những con hải âu lấp loáng ở ngoài Nam Hải kia, được tự do tạo cuộc đời theo ý muốn của mình. Nhớ lại tuổi thiếu niên bị câu thúc và thiếu thốn, tôi có cảm tưởng rằng chiếc xe ca mỗi giờ mỗi phút đưa tôi xa cái thời đó cũng như xa cảnh mưa phùn ảm đạm ở Bắc Việt mà chúng tôi mới từ biệt ngày rưỡi trước.

"Nghĩ tới tương lai, tôi không hề lo lắng (...) mà trước mặt chỉ thấy hăng hái và hi vọng, tràn trề hi vọng. Có ít nhất là ba chục năm để sống, sẽ gặp những thời thế mới, hoàn cảnh mới, sẽ kiếm được tiền, học hỏi thêm, và sẽ hoạt động để đóng một vai trò nào đây. Có gì thú cho bằng, kích thích cho bằng nữa? Tôi nghĩ thầm: ở trường ra ai cũng như ai, đều sắp hàng ở cái vạch trắng đánh dấu mức khởi hành của cuộc đua, thử xem sau này ai tới trước và tới đâu? Chiếc xe ca vẫn lăn đều đều trên đường tráng nhựa, một bên là dãy Trường Sơn, một bên là biển cả, gió khơi lộng vào tóc, hương rừng ùa vào phổi.

Đó là tâm trạng của tôi hồi đó như vậy".

Tới Nha Trang chúng tôi bỏ xe hơi lên xe lửa. Tám giờ sáng hôm sau đến Sài Gòn. Một anh bạn học, Lê Trọng Minh, đợi chúng tôi ở sân ga, đưa chúng tôi về Đa Kao. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là ga Sài Gòn nhỏ quả, kém xa ga Hàng Cỏ; mà Sài Gòn rất tươi sáng, náo nhiệt: ánh vàng tưng bừng trên cành, trên những ngọn sao, dầu, cao vút, thẳng như cây cột, khiến tôi nhớ phố Lò Sũ ở Hà Nội; đường phố nhộn nhịp người qua lại, phụ nữ hầu hết bận áo cụt[61], chưa quen mắt nên tôi thấy chướng.

Nghỉ ở Đa Kao một chút - mấy từ này tôi nghe lạ quá, như không phải tiếng Việt - rồi tôi qua Khánh Hội ở trọ nhà một người em họ tên là Quýnh làm thư kí tại ngân hàng Đông Dương. Giờ đó trời đã nóng như đầu hè ở Bắc. Hôm sau lại sở nhận việc, chúng tôi được biết chỉ ở Sài Gòn hơn mười bữa rồi ăn Tết xong, xuống làm ở Long Xuyên. Tôi liền viết thư cho mẹ tôi hay và báo tin cho bác Ba tôi ở Tân Thạnh rằng ba mươi Tết tôi sẽ xuống thăm người.

Ở Sài Gòn non nửa tháng đó, tôi đã bắt đầu ngán "Hòn ngọc Viễn Đông". "Đủ mọi giống người hỗn tạp, đa số là con buôn; nóng, bụi và ồn; muốn kiếm một chỗ thanh tĩnh có chút di tích dể ôn lại dĩ vãng thì không biết kiếm ở đâu, và suốt ngày thâu đêm, chỉ thấy người ta ăn uống, đánh tứ sắc và ca vọng cổ".

Sáng sớm 30 Tết, chú Quýnh và tôi lại chợ Bến Thành lên xe đò[62] để đi Mĩ Luông. Trên đường tôi để ý nhận thấy miền Nam nhiều sông rạch quá, cho nên nhiều cầu, nông dân ít người lam lũ, và ruộng nhiều chỗ chưa gặt xong, còn đương đập lúa ở ngoài đồng, vài chỗ có những đống lúa mới đập chưa chở về nhà. Từ cảnh vật đến người, đâu đâu cũng có vẻ tươi sáng, vui vẻ, thoải mái.

Đường dài quá, trên trăm rưỡi cây số, qua mấy thị xã, mấy chợ quê rồi mà vẫn chưa tới nơi, tôi sốt ruột. Khoảng 12 giờ trưa xe mới ngừng ở chợ Mĩ Luông và chú Quýnh và tôi xuống đò qua làng Tân Thạnh ở bờ bên kia sông Tiền Giang. Đi bộ một quảng nữa, gặp một người anh con bác tôi, anh Việt Châu đi đón.

BÁC BA TÔI VÀ LÀNG TÂN THẠNH

Tới nhà, bác Ba tôi nắm chặt tay tôi, mừng biết bao. Đã mấy năm nay bác cháu anh em chỉ biết nhau trong bức thư chứ đâu đã biết mặt. Cả nhà xúm lại chung quanh chúng tôi.

Bác trai tôi cũng thấp người, da trắng như cha tôi, có phần đẫy hơn; trán cao, mặt vuông, miệng rộng - nghe nói hồi trẻ môi son nữa - tướng phương phi, phúc hậu, tính tình nghiêm hơn bác Hai, nhưng có phần khoan hơn cha tôi. Bác gái tôi cũng thấp, trắng trẻo, ra vẻ nhàn hạ phong lưu, không cực khổ, tháo vát như mẹ tôi, tính tình thành thật, dễ dãi, rộng rãi.

Trong cuốn Đông Kinh nghĩa thục tôi đã chép khá kĩ về bác Ba tôi, đây chỉ xin tóm tắt vài nét chính. Học giỏi, có tài văn thơ, thi Hương thử một lần rồi bỏ, gia nhập Đông Kinh nghĩa thục, cưới con gái (cô Năm) cụ cử Lương Văn Can, thục trưởng, cả hai vợ chồng đều dạy giúp nghĩa thục. Hiệu là Phương Sơn, bạn đồng chí trong nghĩa thục gọi là Tiểu Phương để phân biệt với bác Cả tôi là Đại Phương, chơi thân với cụ Đỗ Chân Thiết (Đỗ Cơ Quang), thân phụ Đỗ Bàng và Đỗ Thị Tâm, nhưng chí hướng mỗi người một khác, bác tôi ôn hòa hơn.

Nghĩa thục bị đóng cửa thì bác gái trước và con trai mới vài tuổi đều chết, bác tôi bỏ Hà Nội, lẻn vào Sài Gòn, định ở Nam ít tháng để liên lạc với các đồng chí rồi sẽ qua Xiêm, không ngờ tàu vô Vũng Tàu thì hay tin đêm trước Phan Xích Long công phá Khám Lớn Sài Gòn (1913), mật thám canh gác rất ngặt, bác tôi lại phải lẻn vào một miền hẻo lánh ở ven Đồng Tháp Mười[63]. Ở đó, người tiếp xúc được với vài đồng chí cũ và mới, liên lạc được với cụ Lương Văn Can đang bị an trí ở Nam Vang, nhưng thấy thời cơ chưa thuận tiện, người tạm trú tại nhà một người có Nho học và có uy tín trong làng Tân Thạnh để dạy học, được người trong miền kính mến. Rồi người cưới vợ, được người quen chỉ cách cho, xin khẩn một khu ruộng - thời đó Đồng Tháp còn hoang vu - thành một điền chủ hạng trung, có độ hai trăm héc-ta, chỉ một nửa là làm lúa sạ được. Vốn tri túc, người không khuếch trương thêm, tiêu khiển với mấy chậu cảnh, với việc dạy học và làm thuốc giúp bà con trong vùng. Danh tiếng lan xa, đa số các nhà giàu sang ở Long Xuyên, Sa Đéc đều nhờ người trị bệnh. Tóm lại, người là một ẩn sĩ phong lưu, nhà cầm quyền Pháp ở Long Xuyên có lần muốn mua chuộc người bằng lợi lộc, người từ chối; họ thấy người không bạo động, nên để yên. Chính người đã lấy số Tử vi cho tôi khi mới sanh. Năm đó (1935) người 53 tuổi, còn mạnh lắm.

Làng Tân Thạnh ở giữa miền Hồng-Cao (Hồng Ngự - Cao Lãnh) mà tôi đã tả trong bài Tựa cuốn Nguyễn Quang Diêu của Nguyễn Văn Hầu, nổi tiếng là đất văn học và cách mạng trong vùng. Văn học thì xưa có một số nhà Nho, học trò cụ Tú Thường[64] ở Cái Vừng; khi tôi tới, mấy nhà Nho đó còn sống, con cháu họ đã theo Tây học, có người qua Pháp đỗ kĩ sư điện, hoặc cử nhân văn chương; đặc biệt là có một người xuất thân trường nữ học Gia Long, thiếu nữ đầu tiên trong tỉnh năm 1928 có bằng Cao đẳng tiểu học. Cách mạng thì phái cổ có cụ Hồ Nhật Tân hướng ứng phong trào Đông kinh nghĩa thục, phái mới có bốn năm người kháng Pháp, theo đảng Cộng Sản. Làng lại giàu có: đầu thế chiến thứ nhất chỉ có những nhà lá rải rác trên bờ rạch Đốc Vàng thượng[65], sau nhà là lau sậy; phương tiện giao thông chỉ có ghe, xuồng, từ làng ra tỉnh lị Long Xuyên mất một ngày, lên Sài Gòn mất một tuần; vậy mà chưa đầy hai chục năm sau, dân chúng đã khai phá sâu vào được mấy cây số suốt hai bên bờ rạch, cất được mấy ngôi nhà đúc và vô số nhà sàn mái ngói, phương tiện giao thông đã có ca-nô. Nhiều điền chủ có ba trăm héc-ta ruộng hoặc hơn.

Nhà bác tôi chỉ là một nhà sàn mái ngói vào bực trung trong làng, trước có sân rộng trồng hoa nhìn ra rạch Đốc Vàng thượng, một bên là vườn xoài, sau lưng là một hàng tre. Nhà rộng 9 thước, gồm hai lớp: lớp ngoài sâu độ tám thước, lớp trong độ sáu thước. Bên hông nhà là một lẫm cũng bằng cây, khá lớn, vừa để chứa lúa vừa để chất các đồ làm ruộng.

Hôm đầu, ngồi xe mệt mà không được nghỉ, phải hầu chuyện bác tôi và nói chuyện với hai người con trai lớn của bác: anh Xuân Tăng đương học ban tú tài ở Cần Thơ, và anh Xuân Thiếp đậu bằng tiểu học rồi ở nhà học chữ Nho, theo nghề Đông y[66].

Tối đó bác tôi đưa tôi và chú Quýnh đi chào mấy vị lớn tuổi và có danh vọng trong họ bác gái tôi: một bà cụ con một vị Cai tổng đã khuất, mà thời trước Cai tổng miền này có uy quyền ngang với phủ huyện; dân trong tổng còn sợ hơn sợ chủ quận vì chủ quận ở xa; một vị Hương Cả (cũng như Tiên chỉ ở Bắc) có học Nho, vào hạng khá giàu. Sáng hôm sau, mùng một, bác tôi đưa chúng tôi đi thăm cảnh trong làng rồi xuống chợ Tân Phú trên rạch Đốc Vàng hạ, vào thăm ông Phủ Nghĩa (phủ hàm), người giàu nhất nhì tỉnh Long xuyên. Ông năm đó khoảng bảy chục tuổi mà còn mạnh, tướng mạo phương phi. Bác tôi tuy không thích làm giàu nhưng trọng những người tay trắng làm nên như ông (miễn là không làm giàu một cách tàn nhẫn, tí tiện), khen ông là giỏi tính toán, khéo cư xử, không khoe giàu, biết xét người. Ông cũng có biệt nhãn với bác tôi vì tư cách, học thức.

Ông phủ hồi nhỏ nghèo, không được học, nhưng thông minh, cần kiệm, cố gây một số vốn rồi xin khẩn đất hoang, gặp thời, làm đâu trúng đấy, mấy chục năm sau có khoảng ngàn mẫu ruộng, dinh cơ ở Tân Phú gồm một nhà lầu nền đúc, nhiều nhà một tầng cũng nền đúc, mấy cái lẫm lúa, vài nhà máy xay lúa, tất cả choán một khu rộng trên bờ rạch Đốc Vàng hạ. Trước nhà luôn luôn có mấy chiếc ghe lúa đậu, xuồng và ca-nô chật bến. Ông cất cho làng một ngôi chợ gần dinh cơ của ông và nhiều dãy phố cho mướn ở chợ Mĩ Luông. Có ba người con trai, đều vào hạng biết làm ăn, chứ không phá của vì ông biết dạy con; một người làm cai tổng, một người làm hội đồng tỉnh. Dân trong miền không oán ghét gia đình đó vì họ không cướp bóc, hà hiếp ai.

Coi dinh cơ của họ đồ sộ, người ăn kẻ làm tấp nập, từ trên nhà tới dưới bến, trông cũng vui mắt, nhưng tôi không thích mà thích một nhà sàn có hoa cỏ, cây cao bóng mát hơn.

Chiều mùng hai tôi phải từ biệt bác tôi để qua Chợ Mới, ngủ tại nhà một người anh họ, anh Thiệm, ở Phương Khê vào đây làm ăn từ mấy năm trước, có một sạp bán vải ở chợ. Sáng sớm mồng ba tôi với anh Thiệm đi đò đạp qua Long Xuyên. Đò là một chiếc ghe dài chở được ba bốn chục người và nhiều hàng hóa, nhưng không có chèo mà có một xa quạt ở phía sau do bốn người đạp. Đò đi rất chậm, lại ghé nhiều nơi đón khách, nhờ vậy tôi được coi phong cảnh hai bên bờ rạch Ông Chưởng (Chưởng binh Lễ tức Nguyễn Hữu Cảnh 1650-1700). Miền này phong phú, nhà cửa san sát, hầu hết là nhà sàn mái ngói, một số là nhà nền đúc. Nhà nào cũng có vườn trồng xoài, mận... đẹp nhất là mai vàng.

*

Mười một giờ trưa mới tới Long Xuyên, gặp anh Thái và anh Hách ở Nha Trang vào, ba chúng tôi cùng học một lớp, nay cùng làm một sở. Lại gặp một hai thầy họa đồ (Opérateur) giúp việc cho chúng tôi nữa. Mướn phòng ngủ rồi rủ nhau đi coi thị xã. Thành phố nhỏ mà buồn, đi độ một giờ là hết. Chia làm hai khu vực: khu thương mãi ở phía Nam gồm một nhà lồng (chợ) ở sau nhà việc (cơ sở hành chánh) của làng Mĩ Phước, và gần bờ sông Hậu Giang. Chung quanh chợ có ba bốn dãy phố buôn bán, hầu hết là của Hoa kiều, có một đường lát đá dọc theo sông Hậu đưa xuống Cái Sơn, ngoại ô, cảnh ở đây đã như nhà quê rồi. Khu hành chánh ở phía bắc; một cây cầu sắt bắt qua rạch Long Xuyên nối hai khu với nhau. Khu hành chánh gồm các công sở như Tòa bố (tỉnh đường), sở Bưu điện, sở Công chánh, Địa chánh, Bệnh viện, trường tiểu học Nam, Nữ... Chỉ có hai con đường chính song song nhau: Gia Long và Lê Lợi, với vài con đường ngang, nhỏ. Đường Lê Lợi có nhiều phố lầu của công chức gần bờ hồ và sông Hậu, nhiều cây cao bóng mát, như cây teck, cây dái ngựa (?) mùa xuân hương thơm ngào ngạt. Đường Gia Long vắng vẻ, hầu hết là nhà sàn cách nhau có khi tới trăm thước; nét đặc biệt là có một con kinh ở bên đường và nhiều cầu gỗ đưa từ đường vào nhà, nhà nào cũng có vườn rộng; lắm chỗ còn bỏ hoang. Ngày nay đường đó đã đông nghẹt nhà lớp trước lớp sau, có chỗ tới ba lớp; kinh đã lấp, cầu đã dỡ và đường đã mở rộng thành một đại lộ lớn nhất thị xã.

CÔNG VIỆC CỦA CHÚNG TÔI

Sáng hôm sau chúng tôi lại sở Trường tiền (Công chánh) lãnh việc rồi dọn đồ đạc, máy móc xuống ghe (mỗi người trong ba anh em tôi được một chiếc ghe, loại ghe hầu dài ba bốn thước, rộng trên một thước), chèo xuống Ô Môn (cách Long Xuyên khoảng bốn chục cây số trên đường đi Cần Thơ) để tối đó bắt đầu làm việc.

Công việc của chúng tôi là đo mực đất cao thấp (nivellement) ở miền Tây, từ Châu Đốc, Long Xuyên qua Rạch Giá, xuống Sa Đéc, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau; từ mực đất đó mà đo xuống mực nước kinh rạch để tính ra đường nước chảy, khi thảo những kế hoạch thủy lợi.

Ba anh em tôi mỗi người chỉ huy một đội, đi đo một miền. Chúng tôi đo theo các đường lộ và bờ kinh, rạch. Công việc phải làm ban đêm, có hai kíp thay phiên nhau, một kíp từ sáu giờ chiều tới nửa đêm, một kíp từ nửa đêm tới sáu giờ sáng. Mới đầu dùng đèn điện, bất tiện, sau dùng đèn khí đá (Acétylène). Tôi cho việc làm đêm đó là một sáng kiến không có lợi của các kĩ sư Pháp sở tôi.

Mỗi đêm chúng tôi đo được từ ba đến bốn cây số, đo tới đâu, ghe dời chỗ theo tới đó, cứ như vậy tiến hoài, có khi phải trở lại hai ba lần một con đường cũ.

Vào mùa mưa thì cực vô cùng, nhất là ở những miền còn hoang như Chắc Băng - Cạnh Đền, miệt thứ[67], U Minh (Rạch Giá) hoặc Thới Bình (Cà Mau), kinh Gãy (Đồng Tháp Mười)... Vì đất sình lầy, trơn, đâu đâu cũng có đỉa, muỗi, vắt; có khi phải vạch lau sậy mà đi trong đêm tối.

Nhưng mùa nắng mà đi do dọc theo những lộ và rạch miền Sa Đéc, Cần Thơ thì tuyệt thú; không sao quên được ánh trăng vằng vặc trên rạch Cái Răng, Bình Thủy, không khí mát mẻ, hiu hiu gió, thoang thoảng hương sao, hương bưởi, hương mù u..., và tiếng đàn kìm não nùng văng vẳng gảy bản vọng cổ. Miền này quả là nhiều trăng, nước, hương và nhạc.

Một thú nữa là được dời chỗ hoài, mỗi ngày ăn chợ một nơi, hôm trước ở Long Xuyên thì hôm sau đã tới Tầm Bót. Làm xong "ca" sau, sáu giờ sáng, thì chợ đã họp đông rồi, tôi lại mua những thức ăn đặc biệt miền Nam như bánh ú, bánh da lợn, bánh bò, dà châu quẩy[68] (bánh củ cải chiên), bánh cam với ít trái cây tùy mùa: soài, xa pô ti, mảng cầu Xiêm... để ăn điểm tâm (tôi không thích hủ tiếu, cà phê; phở Bắc không có).

NGƯỜI NAM

Tôi làm quen được với nhiều người. Tới tỉnh nào cũng gặp được những bạn đồng sự, họ thường lớn tuổi, giàu có; người nào cũng mỗi năm thu lúa ruộng được ngàn giạ là ít, theo giá thời đó như vậy là họ có thêm mỗi tháng khoảng 100 đồng, bằng lương của họ; ngoài ra họ còn những nguồn lợi khác. Họ hiếu khách, đối với bọn trẻ chúng tôi rất rộng rãi, lái xe hơi đưa đi chơi, tiệc tùng liên miên ở tửu lâu: như vậy đỡ bận cho vợ con mà lại tự do hơn.

Rồi tới các điền chủ hạng "bự" (giàu lớn) mà già, dinh cơ đồ sộ hơn ông phủ Nghĩa ở Đốc Vàng (Long Xuyên) nhiều, thì tôi "viễn chi"; nhưng các con họ, các công tử, các "cậu" đã đi học ở Sài Gòn hay Hà Nội hay bên Pháp ít năm, chẳng được bằng cấp gì, về nhà coi ruộng cho cha, gặp chúng tôi mừng lắm vì có người để "nói chuyện". Đa số sống lêu bêu suốt ngày không làm một việc gì, bày ra ăn uống rồi đàn ca, coi đá gà, đá cá, kiếm gái, hút xách... Đời họ sao buồn thế! Tôi gặp một lần cho biết thôi, không trở lại.

Một hạng người mà tôi tò mò muốn biết hơn: hạng cư sĩ. Thời 1933-1938, phong trào tôn giáo ở Nam đương lên: chỗ nào cũng có những đàn cầu cơ của đạo Cao Đài; thuyết pháp của Phật giáo; thị trấn nào cũng có một nhóm trí thức theo Thông thiên học (Théosophie). Về tôn giáo, ở trường ra tôi mù tịt. Tôi mượn sách báo của họ đọc cho biết, khen sư Thiện Chiếu lí luận rành rẽ; ghét cuốn Đạo giao (không nhớ của ai) chỉ nói về tà thuật chứ không giảng về triết lí; tìm hiểu thuyết luân hồi theo Thông thiên học; nhưng vẫn cho rằng đạo Khổng thiết thực hơn cả.

Tôi vào thăm một nhà cách mạng, cụ Võ Hoành, trong Nam gọi là cụ cử Võ, bạn của bác Ba tôi ở Đông Kinh nghĩa thục, lúc đó đang bị an trí ở Sa Đéc. Tôi đã chép cuộc tiếp xúc với cụ trong phụ lục cuốn Đông Kinh nghĩa thục.

Tôi đã thấy đời sống của những nông dân cất vội một cái chòi mỗi chiều chừng ba thước trên một bờ kinh để "làm" một khoảnh đất mới, thất bại thì dỡ nhà, chở nồi niêu, chén bát, đồ đạc với con heo xuống một chiếc xuồng ba lá chèo đi kiếm đất khác. Đời họ rất vất vả nhưng không bao giờ đói vì có cá, tôm, rùa đem đổi lấy gạo được. Cá Đồng Tháp nhiều vô kể, chỉ thua cá Biển Hồ (Cao Miên), mà Đồng Tháp chính là một biển hồ thứ nhì thông với biển hồ thứ nhất bằng sông Cửu Long và sông Tonlé Sap.

Tôi đã có lần được một bạn rủ đi nghe một cuộc đàn ca trên bờ rạch Bình Thủy. Một căn nhà lá nhỏ cất trên một khu đất vừa mới phát, còn gốc lau sậy. Ngoài sân phơi nhiều quần áo của hạng phụ nữ sang mà trong nhà đồ đạc rất sơ sài: một cái bàn con, vài cái ghế, một bộ ván trải chiếu. Trên vách treo một cây đàn kìm. Năm sáu cành sậy xuyên qua vách lá hở, đâm tua tủa vào một góc phòng. Người chồng trẻ, dáng dấp một thư sinh, bận bộ bà ba lụa đen, đun nước pha trà Thiết Quan Âm tiếp chúng tôi. Vợ bận áo dài, nhỏ nhắn, nước da trắng mịn, vẻ mặt thanh tú, dịu dàng, hỏi thăm chúng tôi vài câu, rồi anh bạn tôi lên dây cây đàn kìm, gảy khúc Phụng cầu hoàng, nàng cất tiếng họa theo. Ngón đàn của anh mùi, mà giọng nàng thanh, ấm. Nàng ngước cặp mắt long lanh lên

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net