PHẦN IV- CHƯƠNG XXLẬP LẠI CUỘC ĐỜITRÊN ĐƯỜNG LONG XUYÊN - SÀI GÒN

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Thời đó con đường Long Xuyên – Sài Gòn không được yên. Có vài khúc quẹo cứ dăm bữa nửa tháng quân kháng chiến lại đặt mìn mà Pháp không có cách gì ngăn được, mặc dù cứ vài ba cây số lại có một đồn canh, vì đêm lính không dám ra khỏi đồn. Nhiều khi quân kháng chiến ngang nhiên đi thành hàng băng qua lộ, cách đồn vài trăm thước, bắt loa khiêu khích mà lính trong đồn nữa mà lính trong đồn cũng làm thinh, vì hễ nổ một phát súng thì đồn bị san phẳng liền. Như có một sự thoả thuận ngầm với nhau: một bên cứ canh gác ban ngày, vô làng xóm bắt gà bắt vịt, bẻ dừa, mận – vừa vừa thôi thì yên; một bên thong thả đi lại ban đêm, đào đường, đặt mìn...

Tới chỗ đường bị đặt mìn, đoàn xe đò phải ngừng lại hai ba giờ đợi xe nhà binh tới gỡ mìn, lấp lại đã. Ở mỗi đầu, xe đò, xe du lịch, xe nhà binh dồn lại cả trăm chiếc, thành hai dãy dài cả cây số. Hai ba giờ sau, đường mới khai thông lại được.

Hôm nào có một chiếc cầu sắt sập bị phá hoặc vì chịu không nổi sức nặng của xe nhà binh thì khi qua được bắc Mĩ Thuận, mặt trời đã sắp lặn, xe không dám chạy ban đêm, đành phải nghỉ lại. Mỗi phía bắc có năm chục chiếc xe, cả xe đò cả xe chở hàng. Khoảng năm chục quán cơm và quán nước, quán nào cũng đốt đèn "manchon" sáng rực, khách khứa tấp nập y như ngày hội. Chiến tranh này như vậy: nơi kia hoang tàn, không một bóng người, một tiếng chim, thì nơi đây náo nhiệt, chen chúc nhau, tiếng ca vọng cổ trong máy thâu thanh vang lên, xen với tiếng cười giỡn oang oang bên bàn rượu. Cô bán hàng nào cũng đeo vàng, đồng hồ, cũng bận lụa, xa tanh. Trong có mấy năm mà bến bắc này thịnh vượng gấp mười trước.

Khoảng chín giờ tối, đèn trong quán tắt bớt, hành khách một số ít nằm trong xe, một số đông vô ngủ trong quán hoặc nằm trên các ghế bố sắp thành hai dãy dài cả trăm thước hai bên đường, chiếc nọ cách chiếc kia độ nửa thước. Giá mướn một đêm bằng một phần mười giá mua ghế mới.

Trời chưa sáng thì mọi người thức dậy, xuống sông hay mương vốc nước lên rửa mặt, rồi ăn sáng. Các quán lại ồn ào, tấp nập, và đoàn xe lại nối đuôi nhau chạy về Sài Gòn.

CHUẨN BỊ LẬP NHÀ XUẤT BẢN

Hôm tôi đi may mắn không gặp trở ngại gì ở dọc đường, nên khoảng hai giờ chiều đã tới Sài Gòn.

Nhà ở trong một ngõ sau hãng Sáo Tân Định, xóm này hầu hết là tiểu tư chức và công nhân. Cháu năm đó đã lớn, đậu bằng Trung học đệ nhất cấp của Pháp rồi. Nhà tôi vẫn dạy học cho một chi nhánh trường Aurore của cô bạn. Chi nhánh đó ở tại nhà cũ của tôi - 50 đường Monceau[137], tên mới là Huỳnh Tịnh Của.

Nhà ở sau hãng Sáo "làm ăn" rất bất tiện vì ở trong hẻm. Tôi bàn với nhà tôi xin cô bạn chủ trường Aurore trả lại cho chúng tôi nhà ở Huỳnh Tịnh Của. Họ tốt bụng, bằng lòng trả, mà không đòi tiền sang nhà. Nhà thời đó đã rất hiếm nên có lệ muốn thuê một căn nào, phải đưa một số tiền từ vài ba chục ngàn tới một hai trăm ngàn đồng cho người ở trước thì người ta mới dọn đi, số tiền đó người Pháp gọi là "tiền vào cửa" (pas de porte), mình gọi là tiền sang nhà. Khi mình không ở nữa, "sang" cho người khác thì người này cũng phải cho mình một số tiền.

Nhà Huỳnh Tịnh Của rất hẹp, chỉ có hai phòng 3,5 x 3,5 mét, phía sau là một khoảng 3,5 x 5 mét vừa là sân, vừa là bếp, cầu tiêu, phòng tắm. Chúng tôi giữ nguyên hai phòng trước làm nơi cho nhà tôi mở một lớp "kèm" trẻ em ban tiểu học trường Pháp; một lớp nữa cho lớp mẫu giáo tiếng Việt.

Khoảng 3,5 x 5 mét phía sau, tôi dời bếp, cầu tiêu, phòng tắm ra chỗ đất trống phía sau nhà, rồi bỏ sân, lợp mái thành một phòng rộng non hai hai chục thước vuông, vừa làm chỗ ăn, chỗ tiếp khách, chỗ ngủ, chỗ tôi viết lách và nơi con tôi học.

Tôi chỉ xuất bản sách của tôi thôi, không mua tác phẩm của ai, nên không phải xin phép, không phải đóng môn bài, nhưng tôi cũng đặt tên cho nhà xuất bản. Nhà tôi mở lớp mẫu giáo thì xin phép. Cả nhà xuất bản lẫn lớp mẫu giáo đều lấy tên tôi.

Năm đó tôi 42 tuổi Tây (43 tuổi ta), lập lại cuộc đời không phải là sớm, nhưng cũng chưa trễ vì từ 40 đến 50 là tuổi già giặn, đủ kinh nghiệm rồi, sức làm việc còn mạnh. Ngoài năm mươi sức bắt đầu suy, phải can đảm mới dám bước vào con đường mới; nhưng từ năm 1975 đến nay, tôi thấy nhiều người quá tuổi đó mà vì hoàn cảnh thúc đẩy, phải lập lại cuộc đời và thành công. Quan trọng nhất là nghị lực chứ không phải tuổi tác.

Trước khi lao vào một con đường mới, ai cũng lo lắng vì trở ngại này, trở ngại khác, nhưng khi đã cương quyết tiến được bước đầu thì ta thấy sự thay đổi cuộc đời không có gì khó khăn cả. Một anh bạn tôi[138] hồi viết báo, ghét và ngại nghề dạy học lắm: phải tới đúng giờ, về đúng giờ, hò hét, soạn bài, sửa bài... nhưng khi tờ báo đình bản, anh miễn cưỡng phải đi dạy học thì chỉ sáu tháng sau anh thấy dạy học thú hơn viết báo và từ đó anh bỏ luôn nghề viết báo.

Ai cũng có thể làm được nhiều nghề: một bác sĩ có thể viết sách, báo, dạy học...; một nhà văn có thể trồng cây, nuôi gà, bán sách, vẽ, chụp hình... Vậy ai cũng có thể đổi nghề dễ dàng, và đổi nghề rồi mà thành công người ta thấy vui thích, tin ở khả năng của mình mà tinh thần trẻ lại, cơ thể cũng trẻ lại.

GẶP CÁC BẠN VĂN: HƯ CHU, THIÊN GIANG, ĐÔNG HỒ, NGUYỄN HỮU NGƯ

Khi ở Long Xuyên tôi đã thư từ với hai nhà văn: Hư Chu và Thiên Giang.

Hư Chu tên thật là Nguyễn Kì Thuỵ, sinh năm 1923 ở làng Hành Thiện (Nam Định), một làng nổi tiếng về đỗ đạt. Con một cụ cử, sớm thôi học chữ Pháp, về quê học thêm chữ Hán rồi phiêu bạt, làm khá nhiều nghề: buôn bán, nuôi gà, thư kí, thầu rừng, dạy học, chế trà, nghề nào cũng thất bại; năm 1950, có vợ rồi, vào Sài Gòn thử nghề cầm bút, viết truyện "feuilleton" cho tờ Việt Thanh được ông chủ nhiệm Văn Hoàn có thanh nhãn, biệt đãi, sau giao cho coi sóc phụ trương Văn chương. Từ đó tiếp xúc với nhiều văn nhân, danh ông càng lên. Chính lúc ấy tôi thỉnh thoảng góp với ông một bài tạp luận hoặc phê bình văn chương[139].

Những truyện ông đăng trên Việt Thanh tình tiết li kì, giọng văn cổ kính, du dương, rất trọng điệu bằng trắc, cho nên được một số người để ý tới ngay, như Nhất Linh và vài anh em chúng tôi ở Long Xuyên. Những truyện ấy sau gom lại thành tập Nam Hải truyền kỳ.

Ông chơi thân với Vũ Hoàng Chương, chỉ làm thơ cổ và làm ít thôi, một số bài được các bạn thơ khen là già giặn, hay, có nhiều nhạc như bài Duyên Liêu trai ở đầu tập Nam Hải truyền kì.

----------DUYÊN LIÊU TRAI

-----Phòng vắng chưa nằm đẫy giấc mơ,

-----Vang cười chợt tỉnh có đâu ngờ!

-----Nửa trang kì sử hồ lay gối,

-----Bốn mặt thu phần quỉ đọc thơ.

-----Hẹn một đời sau âu cũng vậy,

-----Tình trăm năm cũ lại bây giờ.

-----Kìa ai dong đuốc xa dần mãi?

-----Eo óc canh gà những ngẩn ngơ

Ông mất hồi mới 50 tuổi (năm 1973) vì đứt mạch máu. Tôi đã ghi sự nghiệp của ông trong bài Hư Chu đăng trên tạp chí Bách Khoa số 392, tháng 6 năm 1973, khi ông mới mất.

Năm 1953, lên Sài Gòn tôi mới gặp mặt ông. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là con người ấy giản dị mà dễ thương, mà đó cũng là cảm tưởng chung của tất cả bạn văn của ông; ông cởi mở, tự nhiên, thành thực, sẵn sàng giúp bạn; nụ cười của ông tươi, cặp mắt cận thị của ông hiền. Ngay buổi đầu ông đã tươi cười thú thật với tôi: "Cái vốn chữ Hán của tôi có gì đâu anh; tôi chỉ có mỗi một con dao găm, chứ đâu có lưỡi kiếm cây đao nào đâu, múa bậy mà được các anh khen đấy thôi".

Chúng tôi thành đôi bạn thân từ đó, và năm sau (1954) khi tôi mở nhà xuất bản, ba bốn tháng mới ra một cuốn, thì ông giúp tôi: lái chiếc xe máy dầu Peugeot sơn đen đưa tôi lại các nhà in, cùng tôi giao sách, thu tiền, sửa ấn cảo, tiếp xúc với một hai hoạ sĩ nhờ trình bày bìa cho. Có lời, chúng tôi chia nhau để sống. Luôn hai năm, khi tờ Việt Thanh đình bản, ông túng bấn mà vẫn vui. Ông Văn Hoàn thiếu ông bồn bộn, ông đòi không được mà cũng không giận. Dễ thương ở chỗ đó.

Từ năm 1955, ông dạy Sử Địa cho vài trường trung học tư ở Sài Gòn, không có thì giờ giúp cho tôi nữa. Đời sống ông từ đó ung dung hơn.

Ông Thiên Giang (tên thật là Trần Kim Bảng), khác hẳn Hư Chu, không phải là một nghệ sĩ mà là nhà cách mạng.

Ông cùng tuổi với tôi, gốc ở Quảng Nam, học hết Cao đẳng tiểu học Pháp Việt, theo nhóm Đệ tứ, bị Pháp giam ở Lao Bảo một hai năm, do đó mà sau ông viết một tập hồi kí nhan đề là Lao tù, bán khá chạy. Trong những năm 1947 - 1952[140] ông hợp tác với vài tờ báo, viết chung với Thê Húc, Tam Ích một vài tập mỏng hơi có tư tưởng xã hội. Hồi tôi gặp ông thì ông dạy Sử Địa cho vài trường trung học tư thục ở Sài Gòn và cùng với vợ là Vân Trang, coi một hiệu sách ở đường Đinh Tiên Hoàng, khu Đa Kao. Ông có một người em gái, bà Hợp Phố, thỉnh thoảng viết truyện cho trẻ em.

Bà Vân Trang là một nữ sĩ, chuyên viết viết truyện ngắn tả giới phụ nữ nông thôn và tiểu tư sản ở trong Nam, văn giản dị, có duyên, khá có tiếng. Bà là con út trong một một gia đình nhà Nho tiểu điền chủ ở Cần Thơ. Chị cả là vợ nhà văn và chính trị gia Hồ Hữu Tường. Sau bà đó tới bà Tân Sinh. Tân Sinh là tên tiệm sách của bà đường Đinh Tiên Hoàng mà bà Vân Trang coi giùm. Bà Tân Sinh biết làm thơ và chồng viết một tiểu thuyết nhan đề Nọc Nạn, tả bằng một giọng cảm động sự nổi dậy của một nông dân bị điền chủ cướp công khai phá đất ruộng của họ. Rồi tới bà Mộng Trung, người có tài nhất trong bốn chị em, biết đàn ca, viết văn, có nhiều bài đăng trên tạp chí Bách Khoa, bạn thân của nhạc sĩ Trần Văn Khê, đáng tiếc là chết sớm. Bốn chị em người nào cũng thông minh, có khiếu về văn, thật hiếm thấy một gia đình như vậy.

Tôi lên Sài Gòn được ít lâu thì ông Thiên Giang dắt tôi lại thăm thi sĩ Đông Hồ ở nhà phát hành và nhà sách Yiễm Yiễm thư trang đường Nguyễn Thái Học. Tôi biết danh ông Đông Hồ từ năm 1929-1930 mà mãi năm đó mới được gặp mặt. Tôi đã ghi lại cuộc gặp gỡ đó trong bài "Trên mười năm cầm bút và xuất bản" đăng trên tờ Bách Khoa năm 1967, rồi sau in lại trong Mười câu chuyện văn chương (Trí Đăng 1975). Dưới đây xin trích một đoạn:

"Cảm tưởng đầu tiên của tôi là phòng khách - hay phòng sách - của chủ nhân tối quá, hẹp quá, ngổn ngang đồ đạc. Nhưng chỉ một lát sau tôi thấy phòng ấy rất thân mật. Nó chỉ cách tiệm sách có một bước chân mà sao không khí ở đây khác hẳn: tôi quên hết ồn ào náo nhiệt ở bên kia bức vách, như vào một thế giới khác. Mấy cô coi cửa hàng ngoài kia khi bước vô đây cũng không còn vẻ giúp nhà buôn nữa mà lễ độ, khép nép như những danh gia tử đệ. Ngày nay nhớ lại không khí ấy, tôi cho phần lớn do tính tình và cách tiếp khách của chủ nhân. Nhiều người đã viết, nói về Đông Hồ, nhưng tôi chưa thấy ai nhắc tới điểm này: ông có lúc như trịnh trọng, nhưng thực ra rất tự nhiên, hồn nhiên nữa[141]; dù là một kẻ đàn em vô danh như tôi mới gặp ông lần đầu tiên, cũng thấy rất thư thái, như biết nhau từ lâu. (Người thứ nhì cho tôi cảm giác đó là ông Vi Huyền Đắc, ông này thì thật xuề xoà, dễ thương). Và tôi nghĩ đó là cảm giác chung của mọi người chứ không phải riêng tôi, vì tôi thấy ông tiếp nhiều người, già trẻ, thân sơ, ai cũng niềm nở như ai.

Có khi ông dí dỏm nữa. Một nhà cổ nhạc có danh lại thăm ông, ông hỏi ngay: "Hôm nay lại dạy bảo điều gì nữa đây?". Lần khác, nhà trai lại rước dâu, đã tới giờ "lành" rồi, nhắc hai ba lần mà cô dâu – Yiễm Yễm, con gái ông – chùng chình mãi không ra, nhà trai nhắc nữa, ông cười bảo: "Gấp gì? Đào mà!". Tôi suýt bật cười. "Đào" là đào kép.

"Lần ấy chúng tôi nói chuyện với nhau khá lâu – mà những lần sau cũng vậy, không lần nào dứt ra về sớm được. Tôi còn nhớ ông bảo tôi:

- Ở Long Xuyên có thể viết nhiều được, chứ lên đây, mà nhất là làm việc xuất bản nữa thì bận rộn suốt ngày, không viết được đâu, chỉ vài ba năm sẽ cạn hứng.

Tôi không tin nhưng cũng không cãi. Nếu lúc đó tôi thưa với ông rằng tôi phải viết trong một căn phòng ba mét rưỡi chiều rộng, bốn mét rưỡi chiều dài, vừa làm phòng ăn, phòng ngủ, phòng tiếp khách, phòng học của cháu, một bên là căn bếp khói mù, một bên là lớp học độ hai chục em bé thì chắc ông sẽ khuyên tôi nên mua vé xe mà về Long Xuyên gấp đi cho rồi!".

Tôi có tính này: trước khi làm một việc gì quan trọng ít nhiều, tôi tính toán kĩ rồi mới quyết định, đã quyết định rồi thì dù ai khuyên gì, tôi cũng giữ quyết định của tôi, vì tôi nghĩ người ngoài không thể nào biết rõ khả năng, hoàn cảnh của tôi bằng tôi. Tôi cho đức tự tin rất cần, không có nó không làm được gì cả, mà tôi tự tin vì nhận định được khả năng mình, không bước vào những khu vực tôi không sở trường, rồi cứ nhắm mục đích đã tự vạch mà tiến đều đều, bền bỉ, không vội vàng mà cũng không ngừng, không ganh đua với ai cả. Raymond Aron trong cuốn Mémoires bảo làm việc gì ông cũng muốn được Prix d'Exellence như hồi đi học. Tôi trái lại, ngay từ hồi đi học không quan tâm tới giải Ưu hạng, nó tới thì cũng vui, không thì không buồn.

Một buổi tối, khi tôi còn ở hẻm sau hãng Sáo, một người thấp, gầy, lưng hơi khòm, ăn mặc lôi thôi, lại chơi tôi, tự giới thiệu là "nhà văn, nhà báo, nhà giáo" Nguyễn Hữu Ngư, bút hiệu là Ngu Í; vợ là cô giáo cùng dạy trường Aurore với nhà tôi.

Tôi chưa hề biết ông mà cũng chưa đọc bài nào của ông cả, thấy ông rất tự nhiên, thân mật, hơi khác thường. Ông viết giúp tờ Phương Đông của Hồ Hữu Tường. Tờ này đương làm một cuộc phỏng vấn các nhà văn Bắc, Nam, mỗi nhà đăng trên một số báo vào ngày chủ nhật hay thứ bảy. Lần đó ông lại phỏng vấn tôi, và tờ báo đầu tiên nhắc đến tôi là tờ ông viết giúp.

Lần lần tôi thân với ông, mến ông, nhưng thú thực là không dám gần ông nhiều. Ông rất thường lại chơi tôi, chứ tôi thì cả năm chỉ lại nhà ông độ một lần.

Tính tình tốt, hay giúp đỡ người; nhờ ông việc gì thì tận tâm, dù giữa trưa cũng gò lưng đạp chiếc xe cũ mà đi liền. Sách báo ông xin được rất nhiều, đem cho tôi đọc tới ngán, mà ông cũng xin của tôi rất nhiều để tặng các bạn ông.

Ông là con một ông đồ ở Hàm Tân (Bình Tuy), một hội viên trong Đông Kinh nghĩa thục. Hồi học ở Pétus Kí (Sài Gòn), có khiếu về văn, được giáo sư Phạm Thiều khuyến khích, năm 1944-1945 giúp việc cho tờ Thanh niên nên quen nhiều người sau này làm cách mạng, theo kháng chiến như Lưu Hữu Phước[142], Huỳnh Tấn Phát...

Có tài về phỏng vấn: bao nhiêu bài phỏng vấn văn nghệ sĩ đăng trên Bách Khoa đều của ông cả, vì trong toà soạn không có ai quen biết nhiều nhà văn bằng ông, cũng không ai như ông chịu đạp xe đi khắp Sài Gòn tìm các nhà văn, có người hai ba lần mới gặp để phỏng vấn. Những bài hay nhất đã được gom lại thành một cuốn nhan đề là Sống và Viết với...[143] do ông tự bỏ vốn ra tự xuất bản năm 1966.

Thỉnh thoảng ông bị khủng hoảng tinh thần, bỏ nhà đi lang thang, nói bậy nói bạ, ai ông cũng chửi: Ngô Đình Diệm, Stalin, các thượng toạ lãnh đạo Phật giáo năm 1963...

Mới đầu, hai năm mới lên cơn một lần, sau sáu bảy tháng một lần, phải đưa vào Dưỡng trí viện ở Biên Hoà độ nửa tháng, một tháng rồi về. Sau ngày giải phóng, bệnh nặng hơn, ông nằm luôn ở Dưỡng trí viện, khi gần mất mới đưa về nhà. Ông mất đầu năm 1978 (?)[144]. Lại điếu ông xong, ra về, tôi bùi ngùi nghĩ bụng: "Xong một kiếp người".

Trong bài Tựa đề cho tập Qê hương[145] của ông, tôi kể một lần ông lại thăm tôi khi bắt đầu lên cơn:

"Tôi nhớ là một buổi sáng đầu đông (năm 1967). Tôi mới ngồi vào bàn viết thì anh ôm một chồng sách, loạng choạng bước vào, lưng khom khom, đầu đưa ra phía trước. Anh đặt chồng sách lên mặt bàn, kéo ghế ngồi, móc túi lấy ra một gói thuốc rê, xé một mảnh giấy quyến, lặng thinh quấn. Tôi biết rồi, dẹp tất cả công việc lại, sẵn sàng ngồi nghe anh. Trông chiếc sơ mi nhàu nát, cả tuần chưa thay, tôi đoán anh mới ở Châu Đốc, Hà Tiên, Tây Ninh, Chợ Giữa hay Hàm Tân về, chưa biết chừng mới được một ti cảnh sát ở đâu đó thả ra hôm trước. Anh vừa hút thuốc luôn miệng - bình thường anh ít hút - vừa kể chuyện. Đủ thứ chuyện. Từ những mộng thời thanh xuân tới những mộng hiện thời, từ chuyện nhà đến chuyện nước, từ chuyện thơ văn tới chuyện chính trị, rồi chuyện bạn thân bạn sơ, bạn trai bạn gái, chuyện hồi kháng chiến, chuyện bị an trí trong bưng... Hết thảy là những chuyện tôi được nghe anh kể nhiều lần rồi, mà lần này nghe lại, tôi vẫn thấy buồn vô hạn. Tôi gần như không xen vô một lời nào cả, mặc anh thao thao để anh trút bớt nỗi bất bình, nỗi căm phẫn của anh đi. Anh căm phẫn xã hội, anh căm phẫn thời đại, anh căm phẫn mọi người. Anh nhiều lí tưởng, nuôi nhiều mộng cao đẹp mà gặp toàn những điều bất như ý, cứ phải cố nén xuống và sức nén càng mạnh thì sức bùng ra cũng càng mạnh. Có lúc anh nghiến răng, nắm chặt tay vung ra như muốn thoi tôi; có lúc anh mếu máo muốn khóc, rồi bỗng chồm lên, chua chát, cay độc mạt sát phũ phàng người bạn già mà anh quí nhất. Lúc đó tôi chán đời biết bao! Có lúc anh cười gằn ghê rợn rồi ngâm thơ, những bài thơ lục bát hay thất ngôn, ngũ ngôn, thường là bốn câu anh làm rất mau.

Hôm đó ngồi nghe anh suốt hai giờ, tôi thấy buồn lạ lùng, không phải chỉ buồn cho anh, mà còn buồn cho chính tôi, cho tất cả loài người. Hết thảy chúng ta bề ngoài đều rất nhã nhặn, lễ độ, nhưng trong đáy lòng vẫn có những đợt sóng ngầm có thể một sớm một tối phát ra mà không sao ngăn lại được...".

*

Tôi còn gặp vài nhà văn nữa như Lê Văn Siêu, Nguyễn Duy Cần... ở toà soạn tuần báo Mới (mà tôi viết giúp mấy bài) cũng của ông Phạm Văn Tươi, tại trên lầu nhà sách của ông. Tôi lại thăm Lê Ngọc Trụ ở thư khố Sài Gòn đường Gia Long, thăm học giả Lê Thọ Xuân ở nhà in Maurice gần chợ Bến Thành. Hai ông này rất chú trọng đến chánh tả và nhờ ông Lê Thọ Xuân mà sách của nhà P. Văn Tươi ít mắc lỗi chánh tả, cũng như sách của Yiễm Yiễm thư trang.

KHÔNG DẠY TƯ – CHỈ XUẤT BẢN TÁC PHẨM CỦA TÔI

Ông Lê Thọ Xuân lúc ấy không viết lách gì cả, vừa quản lý nhà in Maurice, vừa làm giám đốc trường trung học tư thục Tiên Long[146], thấy tôi đã dịch mấy cuốn của Dale Carnegie, lại nhà tôi nhờ dạy giúp môn Anh văn. Tôi thú thực dịch Anh văn thì tạm được, chứ nói không được, nên không dám nhận. Ông bảo giáo sư Anh văn ở Sài Gòn đại khái như vậy hết, ai cũng vừa học vừa dạy. Tôi cương quyết từ chối. Ông có vẻ giận, bảo tôi: "Viết văn thì gặm cây bút để sống à?".

Ông Thiên Giang cũng giới thiệu tôi với ông Phan Ngô, hiệu trưởng một hai trường trung học tư thục có tiếng ở Sài Gòn. Ông Ngô nhờ tôi dạy thay ông môn Việt văn. Tôi cũng từ chối. Lớp học thì đông - 70, 80 học sinh - không có kỉ luật, phải hò hét từ đầu giờ đến cuối giờ; dạy như vậy chỉ để kiếm miếng ăn thì ở Long Xuyên còn hơn, lên đây làm gì.

Trường trung học tư thục hồi đó phát triển rất mạnh ở Sài Gòn. Trường nào có được vài giáo sư giỏi, nổi tiếng về Việt văn, Pháp văn, nhất là Toán, Lí, Hoá thì thanh niên đổ xô tới xin học. Nhiều ông hiệu trưởng chỉ vài ba năm làm giàu rất mau, như Phan Ngô, Vương Gia Cần... Vài anh bạn mới quen của tôi trong giới giáo sư đề nghị hùn với tôi mở trường Trung học, chia nhau người dạy Văn, người dạy Toán, người nào cũng có danh tiếng ít nhiều, lại có lương tâm, thì chắc trường phải thịnh. Rất có thể mau thịnh đấy, nhưng thịnh bao nhiêu thì càng phải lo lắng, mệt óc, dễ đau tim, mất ngủ. Tôi không thích kinh doanh, nên cũng từ chối.

Một thầy kí hồi trước giúp việc tôi ở sở Thuỷ lợi, lúc đó làm cho một nhà chuyên xuất bản sách giáo khoa tiểu học, nhà Việt Hương, đề nghị với tôi mở một nhà xuất bản sách giáo khoa tiểu học và trung học, thầy ấy sẽ tận tâm giúp vì quen nhiều người ở Bộ Giáo dục, nhiều hiệu trưởng trường tư, tôi đáp là không ham làm giàu, chỉ cốt viết và xuất bản ít cuốn mỗi năm đủ sống thì thôi.

Vậy là tôi bỏ qua hai cơ hội làm giàu; sau 1965, khi nửa triệu quân Mỹ ồ ạt đổ bộ lên nước mình, tôi lại bỏ một cơ hội nữa: không cất nhà cho Mĩ mướn như vài người đã khuyên. Số tử vi của tôi (giàu lớn nhờ kinh doanh, như làm thầu khoán chẳng hạn) đã sai chăng? Mà số tử bình của tôi (tuy có tiền của và danh vọng mà sống thanh đạm, một đời giữ được phong vị một hàn nho) đã đúng chăng? Coi Phụ lục ở cuối bộ.

Ngày nay tôi mừng rằng không làm chủ một trường tư, hay một nhà xuất bản lớn, gia sản chỉ có mỗi ngôi nhà ở đường Kì Đồng, chứ nếu tôi làm ăn

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net