ki thuat tiem

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng
tiêm hoặc xoay nhẹ ruột bơm tiêm theo chiều ngược kim đồng hồ sẽ thấy máu chảy vào bơm tiêm.
Tay trái tháo nhẹ nhàng dây garo và bảo bệnh nhân mở bàn tay ra, đồng thời ngón trỏ bàn tay trái giữ lấy đốc kim, ngón cái để trên thân bơm tiêm, ngón giữa, ngón nhẫn, ngón út giữ bên cạnh bơm tiêm cố định khi bơm thuốc vào.
Tay phải ngón trỏ và ngón giữa kẹp lấy phần cuối của bơm tiêm (gờ bơm tiêm), ngón cái đặt vào ruột bơm tiêm và từ từ bơm thuốc vào tĩnh mạch.
Nếu bệnh nhân kêu đau nhìn lại chỗ tiêm thấy phồng là kim đã chệch ra ngoài mạch máu, phải điều chỉnh lại kim bằng cách đưa kim sâu hơn hoặc rút kim bớt ra một chút và hút nhẹ bơm tiêm xem máu có còn vào bơm tiêm không. Nếu vẫn chảy vào tức là kim đã nằm trong lòng mạch, bơm thử thấy không phồng thì lại tiếp tục từ từ bơm thuốc thật chậm, vừa bơm vừa theo dõi sắc mặt của bệnh nhân và hỏi xem bệnh nhân có thấy đau, nóng hoặc chóng mặt không? Nếu bệnh nhân thấy nóng nhiều và chóng mặt, phải tiêm chậm lại hoặc dừng tiêm và báo cáo thầy thuốc.
Khi bơm gần hết thuốc phải rút kim thận trọng tuyệt đối không được để không khí lọt vào mạch máu sẽ gây tắc mạch máu nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân.
Tiêm xong lúc rút kim ra phải ngón cái tay trái kéo chệch căng da để máu và thuốc không chảy ra theo mũi kim.
- Sát khuẩn lại nơi tiêm bằng bông tẩm cồn, đặt bông cồn lên nơi tiêm giữ lấy vài giây (chú ý không bảo bệnh nhân gập tay lại).
- Để bệnh nhân nằm lại ở tư thế thoải mái.
- Thu dọn dụng cụ phải hút ngay nước lạnh vào bơm tiêm để tránh máu đông lại gây tắc kim và làm két bẩn bơm tiêm.
6.Những biến cố, tai biến và cách xử trí.
6.1.Tắc kim
Khi đâm trúng vào tĩnh mạch máu chảy vào trong bơm tiêm nhưng bị đông lại ngay ở đầu mũi kim gây tắc kim tiêm không bơm thuốc vào được thì phải rút kim ra thay kim khác và tiêm lại.
6.2.Phồng nơi tiêm
Khi đâm tiêm vào trúng tĩnh mạch máu trào vào bơm tiêm nhưng khi bơm thuốc vào thì lại phồng lên vì mũi vát của kim nằm ngửa trong nửa ngoài tĩnh mạch (xuyên mạch) hoặc bị bỡ tĩnh mạch.
+ Xử trí:
- Điều chỉnh lại mũi kim.
- Khi tiêm xong dặn bệnh nhân chườm nóng để chỗ máu tụ hoặc thuốc tan nhanh.

6.3.Bệnh nhân bị sốc hoặc bị ngất
Có thể vì sợ quá hoặc do bị phản ứng thuốc, do bơm thuốc quá nhanh hoặc đâm kim nhiều lần không trúng tĩnh mạch thì phải ngừng tiêm và báo cáo thầy thuốc để xử trí.
6.4.Tắc mạch
Do để khí lọt vào thành mạch trong khi tiêm.
Nếu lượng thuốc nhiều, bơm bé thì phải tiêm làm nhiều lần, tuyệt đối không để nguyên kim tiêm ở trong tĩnh mạch và tháo bơm tiêm ra hút thuốc mới rồi lắp vào kim đã có sẵn trong tĩnh mạch để tiếp tục bơm thuốc, làm như vậy rất nguy hiểm, không khí dễ lọt vào gây tắc mạch hoặc do không đuổi hết bọt khí trước khi tiêm cho bệnh nhân.
- Phát hiện: Mặt bệnh nhân tái, ho sặc sụa, khó thở hoặc ngừng thở đột ngột.
- Xử trí: Cho bệnh nhân nằm đầu dốc ngay, xử trí triệu chứng suy hô hấp, suy tuần hoàn.
6.5.Đâm nhầm vào động mạch
Nếu bơm thuốc vào mà thấy bệnh nhân kêu đau nóng ở bàn chân thì phải ngừng tiêm và rút kim vì có thể đâm nhầm vào động mạch.
6.6.Gây hoại tử
Nếu tiêm chệch ra ngoài những thuốc chống chỉ định của tiêm dưới da và tiêm bắp thịt như calci clorur
- Phát hiện: Chỗ tiêm nóng, đỏ, đau, lúc đầu cứng sau mềm nhũn giống ổ áp xe.
- Xử trí: Lúc đầu chườm nóng.
· Lúc hoại tử: Băng mỏng giữ khỏi nhiễm khuẩn thêm, có thể phải chích nếu ổ hoại tử lớn.
6.7.Nhiễm khuẩn toàn thân
Do không đảm bảo nguyên tắc vô khuẩn.
Nhiễm khuẩn huyết có thể gặp.
- Phát hiện: Sốt cao, rét run, tình trạng nhiễm khuẩn nặng, cấy máu (+).
6.8.Nhiễm khuẩn lây
Ví dụ viêm gan virut do vô khuẩn kim không tốt, kim tiêm tiêm từ người có viêm gan virus sang người lành sẽ bị mắc bệnh viêm gan virus.
- Phát hiện: Sau khi tiêm từ 4 - 6 tháng bệnh nhân có biểu hiện mệt mỏi, chán ăn, vàng da, vàng mắt, nước tiểu sẫm màu.
- Nhiễm HIV: Do tiêm, trích vào tĩnh mạch không đảm bảo nguyên tắc vô khuẩn.




Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net