LHPTK 4

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CHƯƠNG IV

HIẾN PHÁP - NGUỒN CƠ BẢN CỦA NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VIỆT NAM

I. LỊCH SỬ LẬP HIẾN VIỆT NAM

1. Trước Cách mạng Tháng Tám 1945

Kể từ khi xuất hiện cho đến hiện nay, Hiến pháp được nhìn nhận như là một trong những dấu hiệu thể hiện nền văn minh, nền dân chủ của mỗi một quốc gia. Nhà nước ta là Nhà nước phong kiến và thực dân nửa phong kiến, do vậy không có Hiến pháp. Trước sự phát triển của nền văn minh nhân loại sau cách mạng tư sản ở  Âu châu, ở nước ta đã xuất hiện những tư tưởng lập hiến, muốn cho đất nước Việt  Nam cũng có một bản Hiến pháp như các nước dân chủ khác. Những tư tưởng này tập trung vào hai khuynh hướng rõ rệt:

1) Những tư tưởng muốn Nhà nước Pháp, với tư cách là một nhà nước bảo hộ   ban hành  cho  nhân  dân  Việt  Nam  một  bản  hiến  văn.  Đó  là  những  tư  tưởng  của  Phan  Bội Châu, Phan Chu Trinh, của Nguyễn Ái Quốc, của nhóm cực kỳ vị Pháp. Đó là Bùi Quang Chiêu, Phạm Quỳnh, Lê Văn Bông, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Huy Lục...

Vào những năm hoạt động cách mạng của mình, Phan Bội Châu (1925 – 1940) đã biên  soạn cuốn Xã hội chủ nghĩa và tự mình dự thảo một bản Hiến pháp của Việt Nam, trong các tác phẩm này Phan Bội Châu đã tự hình thành ra một số khái niệm của hiến

pháp như: Quyền lực nhà nước, chủ quyền nhân dân, dân quyền…

Phan Chu Trinh được Pháp cho sang Pháp học, ông tiếp tục quan điểm “Ỷ Pháp cầu tiến bộ” (dựa vào Pháp để tiến bộ) để thực hiện “Dân trị”, “Dân quyền,” “Dân trị”, thì tự quốc dân Việt Nam phải lập ra hiến pháp và luật lệ của mình. .

Cuộc đấu tranh đòi cải thiện “nền công lý ” ở Đông dương do Nguyễn Ái Quốc khởi sướng từ Paris đã bùng lên ở Việt Nam, tập trung ở Sài Gòn, Hà Nội và diễn biến xung quanh tư tưởng lập hiến. Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gửi cho Hội nghị các nước đồng minh thắng trận họp tại Versailles, bản yêu sách đòi cải cách nền pháp lý ở Đông dương. Sau này bản yêu sách  được Người diễn thành  yêu cầu ca gửi Việt kiều tại Pháp, trong đó có yêu cầu thứ 7 rằng:

Bảy xin Hiến pháp ban hành

Trăm điều phải có thần linh pháp quyền.

Năm 1926, Nguyễn Ái Quốc lại nhan danh Người sáng lập ra tờ báo “Việt Nam hồn” cùng với đại diện Hội Phục Việt ở Paris gửi tới Hội Vạn quốc (tiền thân của Liên Hợp quốc) bản tố cáo tội ác của thực dân Pháp đòi quyền độc lập tức khắc cho dân tộc Việt Nam để Việt Nam có thể … “xếp đặt một nền Hiến pháp về phương diện chính trị, xã hội theo những lý tưởng dân quyền…”   Sự kiện này cùng với những nhiều hoạt động khác của Nguyễn Ái Quốc, nhất là việc Người thành lập ra Tổ chức Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, tháng 6 năm 1925 tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam bây giờ, đã dấy

lên một phong trào đòi quyền tự do dân chủ, đòi thả Phan Bội Châu, để tang Phan Châu

Trinh… đòi lập hiến, sôi nổi nhất là ở Hà Nội và Sài Gòn.

Trong  phong  trào  đòi  các  quyền  tự  do  dân  chủ,  ở  miền  Nam  Việt  Nam  xuất  hiện nhóm Lập hiến do Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phan Long đứng đầu. Ở Pháp giới Việt kiều  cũng  xuất  hiện  nhóm  Lập  hiến  do  Diệp  Văn  Ký  và  Dương  Văn  Giáo  đứng  đầu. Những nhóm nầy đều gửi Tổng thống Pháp bản kiến nghị yêu cầu nhà nước Pháp ban hành cho nhân dân Việt Nam một bản hiến pháp. Một số yếu nhân của Đảng Lập pháp được thực dân Pháp tham gia và Hội đồng thuộc địa, Hội đồng Canh nông… trở thành chủ đồn điền, nhà băng…Năm 1927 Đảng này tự giải tán.

Trong số những trào lưu trên đáng chú ý là tư tưởng của Phạm Quỳnh chủ bút tờ Nam phong, ngay từ những số ra đầu tiên đã có tư tưởng yêu cầu Pháp “ban cho một cái Hiến  pháp  thế  nào  cho  cái  quan  niệm  quốc  gia  của  chúng  tôi  được  phát  triển  ra,  cho chúng tôi cũng có cái ở đời làm nước xứng đáng ngay ở trong phạm vi Đế quốc Pháp”.1

2) Nhóm thứ hai với quan điểm mang nhiều tính cách mạng triệt để hơn, muốn cho nhân dân Việt Nam có Hiến pháp, thì trước hết phải giành được độc lập cho dân tộc, tự nhân dân Việt Nam sau độc lập dân tộc, sẽ thông qua một bản hiến văn cho mình, mà không dựa vào sự ban hành của thực dân Pháp. Đại diện cho lập trường này Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, sau này là Nguyễn Ái Quốc và những người cộng  sản  khác…  Điểm  cần  phải  chú  ý  rằng,  không  ít  người  trong  số  họ  được  trưởng thành từ những dòng tư tưởng  thứ nhất.  Đó là cả một thời dài chứa đựng nhiều khó khăn trăn trở để tìm đường cứu nước của họ.

Đại diện cho dòng tư tưởng cách mạng triệt để này là các chiến sỹ cộng sản, mà đứng đầu phải kể đến Nguyễn Ái Quốc. Trên mặt trận báo chí, nhất là trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, Đảng Cộng sản   đã tiến hành cuộc đấu tranh chống tư tưởng cải lương về lập hiến.

Hồ  Xanh,  bút  danh  của  Nguyễn  Thượng  Cát,  đảng  viên  Đảng  Cộng  sản  trong  bài “Cảm tưởng của chúng tôi về vấn đề Hiến pháp cho nước Nam” trong báo Hồn Trẻ đã viết:

“Lập Hiến hay trực trị chẳng qua chỉ khác nhau cái tên thôi, chứ rút lại đều đứng dưới là cờ ba sắc cả, đều là ở dưới quyền Chính phủ Pháp, như thế Hiến pháp không bao

giờ có chân giá trị. ”2

Nghị  quyết  của  Hội  nghị  Trung  ương  lần  thứ  6  năm  1939  đã  khẳng  định  lại  chủ

trương đường lối chính sách của Đảng Cộng sản là:

“Đảng Cộng sản đấu tranh cho sự thống nhất dân tộc Việt Nam không phải bằng cách quỵ lụy hay mặc cả với đế quốc ban hành cho một bản Hiến pháp, trái lại bằng cách liên kết tất cả các dân tộc, các giai cấp, các đảng phái phản đế để đánh đổ đế quốc làm cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng Cộng sản luôn luôn chú ý bênh vực quyền lợi của vô sản và quần chúng lao động và Đảng sẽ lãnh đạo cuộc cách mạng đến triệt để giải phóng giai cấp

và dân chúng lao động.”3

1  Xem, Bách khoa thư Hà Nội, Phần 4 Pháp luật,  NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội 2000,tr. 50- 51

2  Xem, Danh Nhân Văn học Hà Nam Ninh, Hội Văn học Hà Nam Ninh, 1982

3  Xem, Văn kiện Đảng từ 1939 – 2.9.1945. NXb Sự thật, Hà Nội 1963, tr. 54

2. Hiến pháp năm 1946

Nhận thức rõ tầm quan trọng của bản hiến văn trong việc khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tức là một nhà nước dân chủ, đoạn tuyệt một cách tuyệt đối với nhà nước quân chủ, nên ngay sau ngày tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9 năm 1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ Lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề về sự cần thiết phải có một bản Hiến pháp cho nhà nước Việt nam. Vì vậy lý do quan trọng nhất cho sự ra đời của bản hiến pháp đầu tiên của nhà nước Việt Nam là nhu cầu của công cuộc xây dựng một nhà nước dân chủ, mọi quyền lực nhà nước phải thuộc về nhân dân Việt Nam. Hiến pháp như là một bản văn làm cơ sở pháp lý cho việc tổ chức chính quyền dân chủ một cách hợp pháp, cũng như làm cơ sở cho mọi hoạt động của xã hội này.

Ngoài lý do trên việc xây dựng bản Hiến pháp đầu tiên còn nhu cầu của sự đòi hỏi của   sự   một lần nữa về mặt pháp lý   cùng với Tuyên ngôn độc lập khẳng định độc lập, chủ quyền của dân tộc. Chính vì những lẽ đó, Đảng và Hồ Chủ tịch của Chính phủ Cách mạng Lâm thời rất quan tâm đến việc soạn thảo và thông qua Hiến pháp. Chỉ sau ngày Tuyên  bố  độc  lập,  ngày  3  tháng  9  năm  1945,  trong  phiên  họp  đầu  tiên  của  Hội  đồng Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam  dân chủ cộng hoà, Chủ tịch nước đã đề ra 6 nhiệm

vụ, trong đó vấn đề thứ ba là việc phải khẩn trương soạn thảo Hiến pháp. Người nói:

“Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị rồi đến chế

độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân dân ta không hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp.” 1

Để  tiến  hành  soạn  thảo  Hiến  pháp,  theo  Sắc  lệnh  ngày  20-9-1945  một  Uỷ  ban  dự thảo Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu được thành lập. Bên cạnh việc xem xét, xem xét dự thảo của Ủy Ban Soạn thảo Hiến pháp, Quốc Hội còn xem xét cả dự thảo của các thành viên của Ủy ban Kiến  thiết Quốc gia cũng vừa mới được thành lập. Sự khác nhau giữa hai dự thảo này nằm ở chỗ, nếu dự thảo của Ủy ban Kiến thiết Quốc gia

có đề xuất việc thành lập một Quốc hội – lập pháp gồm hai viện, thì của Ủy Ban sọan thảo Hiến pháp chỉ có một viện. Quốc Hội đã thảo luận và đi đến thống nhât theo tinh thần dự thảo của Ủy ban Dư thảo Hiến pháp.  Dự thảo Hiến pháp được thông qua tại kỳ họp thứ hai Quốc Hội khoá I ngày 8-11-1946. Hiến pháp được thông qua thể hiện đúng tư tưởng chỉ đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo; Tất cả cho cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, bảo đảm các quyền tự do dân chủ cho nhân dân, và xây dựng một chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân.

Hiến pháp năm 1946 là một bản hiến pháp đầu tiên của nhà nước Việt Nam nhưng đã

để lại một mốc son lịch sử quan trọng bậc nhất trong sự nghiệp xây dựng và phát triển dân tộc Việt Nam nói chung và   trong lịch sử xây dựng chính quyền nói riêng. Lần đầu

tiên trong lịch sử mọi người dân đều có quyền bình đẳng ngang nhau trong việc tham gia vào các công việc nhà nước.  Hiến pháp gồm 7 chương chia làm 70 điều.

Chương I nói về chính thể quy định: Nhà nước ta là Nhà nước Dân chủ cộng hoà, một loại hình đặc biệt trong việc tổ chức một nhà nước của nhân dân không phân biệt giai cấp, giàu nghèo, tôn giáo. Tất cả mọi người theo tinh thần đại đoàn kết đều có thể được tham gia vào việc tổ chức và hoạt động của nhà nước của một dân tộc vừa thoát ra khỏi

sự thống trị lệ thuộc của thực dân nước ngoài, và địa chủ  phong kiến trong nước.

1  Xem, Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 4

Mô hình độc đắc sau này đã nhanh chóng được triển khai trên nhiều nước giải phóng khỏi sự thống trị của đé quốc thực dân, với mong muốn xây dựng một nhà nước của mọi tầng lớp nhân dân không phân biệt gíai cấp. Ở chương này hiến văn khẳng định bản chất Nhà nước Việt Nam - Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân Việt Nam, mà không mang bản chất của một giai cấp thống trị nào theo quan điểm truyền thống của chủ nghĩa Mác Lê nin, và quan điểm của các lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô lúc đương thời; Chương II Hiến pháp nói về quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân. Mặc dù không có một nội dung riêng nói về nhân quyền, nhưng chương quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã toát yếu lên những nội dung cơ bản của quyền con người, nhất là quy định sở hứu tư nhân về

tư liệu sản xuất được nhà nước bảo đảm.

Chương III đến Chương VI Hiến pháp quy định cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước - Nghị viện nhân dân, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban hành chính và Toà án. Về cơ cấu tổ chức nhà nước mô hình của Hiến pháp năm 1946 có những dấu ấn như của chính

thể cộng hòa lưỡng tính, theo các phân tích của các nhà chính trị học và hiến pháp học hiện nay. Một trong những đặc điểm quan trọng của loại hình tổ chức nhà nước này là Chủ tịch nước không những là Nguyên thủ Quốc gia, người đứng đầu nhà nước, mà còn

là trực tiếp lãnh đạo hành pháp, bộ máy quản lý mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội, theo nguyên tắc của chế độ tổng thống. Bên cạnh đó vẫn có  Chính phủ, và  người đứng đầu Chính phủ phải do Quốc hội / Nghị viện nhân dân thành lập, phải chịu trách nhiệm trước

Nghị viện và có thể bị Nghị viện bỏ phiếu bất tín nhiệm từng thành viên của Chính phủ, cho đến người đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng. Trong khi đó Nguyên thủ Quốc gia người đứng đầu nhà nước, mặc dù cũng do Nghị viện bầu ra, nhưng lại không phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện, trừ tội phản bội Tổ quốc, theo nguyên tắc vô trách nhiệm của Nhà Vua của chế độ đại nghị. Chủ tịch nước cùng với Thủ tướng, bộ trưởng và thứ trưởng hợp thành Nội các có trách nhiệm thực hiện mọi hoạt động hành pháp của nhà nước.

Một điều đáng ngạc nhiên là khi phân tích các dấu hiệu đặc thù của nhà nước được tổ chức theo mô hình lưỡng tính cộng hòa người ta chỉ lấy mô hình tổ chức của Hiến pháp năm 1958 của Pháp làm ví dụ, mà không thấy rằng những đặc điểm của nó đã được thể hiện trong các quy định của Hiến pháp Việt Nam năm 1946 trước đó.1

Ngoài những đặc điểm trên thể hiện mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp, Hiến pháp năm 1946 còn những đặc điểm khác rất đặc biệt, mà không thể tìm thấy trong các quy định của các hiến pháp Việt Nam sau này. Ví dụ như các cơ quan tư pháp chỉ được quy định dành riêng có cơ quan tòa án xét xử, và nhất là các cơ quan xét xử này được tổ chức theo các chức năng xét xử: Sơ thẩm; Phúc thẩm và Giám đốc thẩm, mà không như

kết hợp giữa nguyên tắc cấp xét xử và cấp đơn vị hành chính như các quy định của các hiến pháp sau này.

Hơn thế nữa việc tổ chức chính quyền địa phương có xu hướng phân biệt giữa thành phố, đô thị  với các vùng nông thôn, nghĩa là có xu hướng ở ra khả năng đa dạng hóa các mối quan hệ giữa các cấp chính quyền trung ương và địa phương. Một trong những đặc điểm đó là việc không phải ở mói cấp chính quyền đều các cơ quan đại diện do nhân dân

địa phương  trực tiếp bầu ra.2

Do tình hình chiến tranh, cho nên luật Hiến pháp 1946 chưa được Chủ Tịch nước công bố cho toàn dân thực hiện. Nhưng dựa trên sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh,

tuỳ tình hình cụ thể mà tinh thần của các quy định Hiến pháp được thực hiện trên thực tế.

1  Xem, Nguyễn Đăng Dung, Chính thể Hiến pháp năm 1946 – Sự sáng tạo tài tình của Chủ Tịch Hồ Chí Minh/ Hiến pháp năm 1946: Sự kế thừa và phát triển. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1998

2  Xem,  Nguyễn Đăng Dung, Sđ d

Hiến pháp năm 1946 là bản hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam ra đời ngay

sau cách mạng tháng Tám 1945, có nhiệm vụ củng cố nền độc lập mà nhân dân ta vừa giành được. Bản hiến pháp đầu tiên trong lịch sử của nước nhà quy định nhân dân không phân biệt giai cấp, giàu nghèo, tôn giáo   là chủ thể của quyền lực nhà nước, quy định cách thức lần đầu tiên nhân dân tự tổ chức thành nhà nước.

3. Hiến pháp năm 1959

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, miền Bắc Việt Nam tiến lên xây dựng chủ

nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ. Hiến pháp năm

1946, tuy không được công bố cho nhân dân toàn quốc thực hiện, nhưng với chỉ thỉ của Chủ  tịch  Hồ  Chí  Minh,  nơi  nào  có  điều  kiện  vẫn  được  thi  hành.  Theo  nhận  định  của Đảng, Hiến pháp 1946 đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của mình. So với tình hình mới, xây dựng một chế độ chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa, tức là xây dựng một chế độ dân chủ mới cần phải có một bản Hiến pháp mới.

Hiến pháp năm 1959 được Quốc hội khoá I kỳ họp thứ mười một ngày 18 tháng 12 năm 1959 thông qua, gồm 10 chương chia làm 72 điều. Chương I: Quy định chính thể của Nhà nước ta vẫn là Nhà nước Dân chủ cộng hoà, tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông  qua  Quốc  hội  và  Hội  đồng  nhân  dân  các  cấp  do  nhân  dân  bầu  ra  và  chịu  trách nhiệm trước nhân dân. Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan Nhà nước khác đều thực hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Bản chất của Nhà nước được Hiến pháp ghi rõ: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng của liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”.

So  với  Hiến  pháp  1946,  Hiến  pháp  1959  có  thêm  chương  nói  về  chế  độ  kinh  tế, Chương II, Điều 9 của chương này quy định:

“Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến”.

Chương III Hiến pháp quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Chương IV

đến Chương VIII, Hiến pháp quy định về cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước.

Có thể nhận định rằng, Hiến pháp năm 1959 là bản Hiến pháp đầu tiên mang nhiều dấu ấn của việc tổ chức nhà nước xã hội chủ nghĩa. Mặc dù tên gọi chính thể không thay

đổi so với của Hiến pháp năm 1946: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng nội dung tổ

chức bên trong của bộ máy nhà nước có những quy định rất khác so với của Hiến pháp

1946. Lý do của sự khác biệt này là sự tiếp thụ các dấu ấn tổ chức nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là việc Nguyên thủ Quốc gia – Chủ tịch nước khác với trước đây không còn thẩm quyền trực tiếp điều hành bộ máy hành pháp, mà  được quy định như là một nhân

vật  siêu  phàm  vượt  lên  trên  những  điều  hành  thường  nhật  của  bộ  máy  này,  làm  biểu tượng cho sự độc lập vĩnh hằng dân tộc, trù liệu cho Hội nghị Hiệp thương thống nhất dân tộc – Hội nghị Hiệp thương Chính trị đặc biệt.

Điều 63 của Hiến pháp này quy định:

“Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà căn cứ vào quyết định của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội mà công bố pháp luật, pháp lệnh; bổ nhiệm, bãi miễn Thủ tướng, Phó Thủ tướng và các thành viên khác  của  Hội  đồng  Chính  phủ; bổ  nhiệm, bãi  miễn  Phó  Chủ  tịch  và  các thành viên khác của Hội đồng quốc phòng; công bố lệnh đại xá và lệnh đặc

xá; tặng thưởng huân chương và danh hiệu vinh dự của Nhà nước; tuyên

bố tình trạng chiến tranh; công bố lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố lệnh giới nghiêm.”

Cơ  chế  tập  trung,  bao  cấp  kế  hoạch  hóa  được  Hiến  pháp  này  thể  hiện  bằng  rất nhiều quy định. Ví dụ việc bỏ các quy định về các khu tự trị, các tổ chức chính quyền địa

phương được tổ chức như nhau ở tất cả các cấp chính quyền địa phương, Viện kiểm sát nhân dân với chức năng kiểm sát chung được thành lập, các cấp tòa án được tổ chức ra theo các đơn vị hành chính…

Nếu như ở Hiến pháp năm 1946, bộ máy nhà nước được quy định theo nguyên tắc phân quyền, thì bộ máy nhà nước của Hiến pháp năm 1959 được tổ chức theo nguyên tắc

tập quyền, và nguyên tắc trung dân chủ. Mọi quyền lực tập trung vào trong tay Quốc hội. Ngay cả Nguyên thủ Quốc gia cũng phải do Quốc Hội bầu ra và bãi miễn. Mặc dù các

quy định của Hiến pháp vẫn thừa nhận sự của loại hình sở hữu tài sản tư nhân (Điều 16), nhưng vì phải thực hiện công cuộc cải tạo công thương để nhanh chóng tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội, nên loại hình sở hữu này hầu như không có điều kiện tồn tại trên thực

tế.

Bắt đầu từ đây các bản hiến pháp của nhà nước Việt Nam mang tính định hướng, tính  chương  trình  lãnh  đạo  của  Đảng  Cộng  sản  cho  sự  phát  triển  theo  con  đường  xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Hiến pháp năm 1959 ban hành sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đề ra nhiệm vụ củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam. Một nhà nước quá độ từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội.

4. Hiến pháp 1980

Sau chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, mở ra công cuộc cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp 1959 hoàn thành nhiệm vụ của mình. Đất nước chuyển sang một giai đoạn mới - giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn vẹn lãnh thổ đất nước.       Việt Nam lại cần một bản Hiến pháp mới. Đó là bản Hiến  pháp  khẳng  định  những  thành  qủa  của  nhân  dân  ta  trong  hai  cuộc  kháng  chiến chống thực dân   và đế quốc, và quy định việc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn vẹn lãnh thổ đất nước, tức là xây dựng một chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trên toàn vẹn lãnh thổ đất nước Việt Nam.

Hiến pháp năm 1980 là Hiến pháp thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn vẹn đất nước.   Hiến pháp 1980 được Quốc hội khoá VI kỳ họp thứ bảy thông qua ngày 18 tháng 12 năm 1980. Hiến pháp này gồm có 12 chương 147 điều. So với các bản hiến

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net