linh thuu phi long c1-25

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 1

Thượng nguồn sông Gia Lăng, nước quanh năm chảy xiết. Đến đoạn trước Lan Hòa trấn, thế nước càng dữ dội hơn. Lòng sông tuy rộng, lại lởm chởm những đá cuội, lập lờ trong nước, lớn nhỏ cả thảy có đến mười tám bãi đá chặn khắp lòng sông. Trạo phu quan lại đã đặt cho khúc sông này một cái tên rợn người là "Ác quỷ tập", hay còn gọi là "Thập bát nghinh khách tiểu hồn".
Kẻ đón khách là ác quỷ, vậy chủ nhân của chúng là ai? Không cần nói ra ai nấy cũng đều biết chính là kẻ cai quản dòng sông, Hà Bá. Hàng trăm năm trở lại đây, Ác Quỷ Tập này này không biết đã nghiến nát biết bao thuyền bè, lại càng không biết mười tám tiểu quỷ đó đã đón tiếp bao nhiêu vị khách cho lão thần sông Hà Bá. Nhưng đó đã là chuyện của bốn mươi năm trước. Bốn mươi năm trở lại đây, Ác Quỷ Tập đó lại không thể hại chết thêm được người nào. Nước sông vẫn chảy xiết như thế, thuyền bè vẫn bị đập nát như trước, mười tám tên tiểu quỷ cũng không hề lười biếng ngủ quên gì cả, chỉ có điều chúng đã gặp phải một vị Bồ Tát.
Bốn mươi năm trước, dường như chỉ trong vòng một đêm, bên bờ sông đã xuất hiện một ngôi miếu nhỏ và một vị hòa thượng. Vị hòa thượng đó không biết đã bao nhiêu tuổi, có thể là năm mươi, cũng có thể là sáu mươi, nhưng cũng có thể là vẫn chưa đến tam thập. Bởi lẽ cho dù là những hán tử tuổi ba mươi thân thể tráng kiện nhất thì thân thủ cũng không thể nhanh lẹ cường tráng như hòa thường đó, nhất là khi ở trong nước.
Gia Lăng giang vốn đã ào ào mạnh mẽ, khi đến Ác Quỷ Tập bị mười tám bãi đá lô nhô chặn lại, lòng sông trở nên hẹp hơn, thế nước càng dữ dội, cuộn xoáy lên phát ra những âm thanh kinh người, tựa như ác hổ sổ cũi, lại cũng giống như quần lang tranh thực vậy. Trong dòng nước xiết ấy, một khi bị lật thuyền xuống, cho dù người lái thuyền có tinh thông thủy tính đến mấy cũng chỉ còn cách nhắm mắt chờ chết. Sức mạnh tiềm tàng của dòng nước, khả năng của con người tuyệt đối không thể chống lại, khi đã bị rơi vào trong nước cuồn cuộn đó thì con người hoàn toàn mất đi khả năng kháng cự, dù là người giỏi về thủy tinh cũng không thể làm gì hơn.
Thế nhưng, với vị hòa thượng này thì sự việc trở nên khác hẳn, dường như trên người ông mang một ma chú có sức mạnh thần thánh, cũng dường như ông chính là một phần của dòng sông, nước sông dữ dội với sức mạnh ngàn vạn cân lại không hề có tác dụng gì đối với thân thể ông. Một khi có người bị vỡ thuyền rơi xuống nước, hòa thượng nọ lập tức nhảy xuống cứu người bị nạn lên. Tư thế ông bơi đi thật là ưu mĩ linh hoạt, có lẽ chỉ loài linh ngư trong nước mới có thể so sánh được với ông, còn vẻ thong dong trầm tĩnh của từng động tác lại có thể sánh được với cả những lão trạo phu tự tin nhất. Khi xuống nước, hòa thượng luôn có một chiếc mảng da cừu buộc chéo trên lưng, những người được cứu lên đều được đặt lên chiếc mảnh da cừu đó đẩy vào bờ. Với ánh mắt sắc bén và tốc độ nhanh hơn rái cá, bất cứ một người nào bị rơi xuống nước cho dù là một đứa trẻ cũng không bao giờ mất tích. Cho đến khi cứu hết được tất cả người gặp nạn ông mới bơi trở lại bờ.
Vị hòa thường đó còn có khả năng y thuật hết sức thần kỳ. Người bị rơi xuống nước, bị dòng chảy cuốn và vào đá, không què tay gãy chân thì cũng bể đầu chảy máu, còn về sặc nước ngừng thở thì lại càng thường xảy ra. Thế nhưng cho dù là gãy chân, gãy tay, bể đầu hay ngừng thở, hoặc bị thương nặng hơn thì hòa thượng đều có cách, thậm chí có người hoàn toàn tắt thở do sặc nước, có thể nói một chân đã bước vào Quỷ môn quan rồi, nhưng hoà thượng vẫn túm được một chân kia kéo giật người đó lại. Bằng thảo dược, bằng các động tác châm cứu, lôi giật xoa bóp, những nạn nhân máu me đầm đìa, gần như đã chết chỉ sau vài khắc là có thể được cứu sống, có trí giác và biết kêu đau rồi.
Từ khi hào thượng đến đây, đã bốn mươi năm, Ác Quỷ Tập vẫn chưa hề có người nào bị đắm thuyền chết cả. Vị hòa thượng ấy tên hiệu Đại Trác, nhưng bánh tính trên con sông này đều gọi ông là Đại Trác Bồ Tát. Bốn mươi năm thấm thoắt qua đi, cuối cùng Đại Trác hòa thượng cũng đã già. Hơn mười năm trước Đại Trác nhận nuôi một cô nhi, đặt tên là Nhất Linh, vừa là tên tục, cũng vừa là pháp danh.
Nhất Linh lớn lên sớm tiếp thu giáo huấn của sư phụ, trở thành một thiếu niên nhanh nhẹn lương thiện, lại rất tráng kiện khôi ngô. Mấy năm nay, Đại Trác không còn xuống sông nữa, chuyện cứu người đều là việc của Nhất Linh. Cứu được người lên bờ, cậu còn phụ giúp sư phụ chữa trị cho nạn nhân. Tất cả mọi người đều nói Nhất Linh ở trong nước còn nhanh nhẹn hơn cả hòa thượng, còn về y thuật thì dường như chẳng kém hơn bao nhiêu so với sư phụ của cậu. Nghe được những lời như vậy, trên mặt của Đại Trác hòa thượng càng lộ ra vẻ được an ủi, còn Nhất Linh thì lúc nào cũng chỉ ngượng ngùng cúi đầu gãi tai.
Ngôi miếu của Đại Trác hòa thượng rất nhỏ, đằng sau không phải là tường mà là một phiến đá lớn màu xanh, phía trước mặt trống tênh, cửa cổng cũng không có. Bốn bề trống rỗng như thế, tuy có thể phát hiện ra thuyền bè bị đắm bất cứ lúc nào, nhưng gió sông vì thế cũng thổi ***g lộng bốn mùa. Ngôi miếu nhỏ đến mức thậm chí không kê vừa một chiếc giường. mà thực ra, Đại Trác hòa thượng cũng không hề có giường, quanh năm suốt tháng ông ngồi thiền thay cho ngủ. Sau khi nhận Nhất Linh về nuôi, cả hai thầy trờ đêm đêm ngồi tựa lưng vào nhau cho đến khi trời sáng.
Thế nhưng một năm nay, đột nhiên Đại Trác hòa thượng không còn ngồi tựa lưng với Nhất Linh nữa mà ông tọa thiền tựa vào phiến đá xanh kia. Đã một năm nay, Đại Trác không còn làm gì, chớ nói đên việc xuống nước cứu người mà ngay cả khi Nhất Linh đã cứu người lên, ông cũng không còn giúp đỡ chữa trị nữa. Đại Trác hòa thượng ngồi ở đó, rất í động đậy, thậm chí cũng rất ít ăn cơm, thường thì phải mười ngày hay nửa tháng cũng không ăn đến một bát cháo.
Ông thật sự đã già, đã rất già rồi.
Nếu như ai đó để tâm còn nhớ thì sẽ phát hiện, năm nay chính là năm thứ bốn mươi Đại Trác hòa thượng đến đây. Thời gian bốn mươi năm với bao nhiêu lần mặt trời mọc lên, với biết bao gió bão nắng mưa, cuối cùng ông cũng đã đến lúc dầu khô đèn tắt.
Nhất Linh rất đau lòng, song cậu không biết phải làm gì. Mười sáu tuổi, cậu chỉ là một chàng thiếu niên ngây thơ hầu như không biết một chút chuyện đời, nhưng có một điều mà Nhất Linh rất rõ, sư phụ đã sắp sửa rời xa cậu. Cậu còn phát hiện ra một chuyện rất kỳ lạ, thân thể của sư phụ dường như đang không ngừng chìm sâu vào phiến đá xanh phía sau lưng. Phiến đá ấy cứng như sắt thép, cho dù là đám thợ rèn đập búa lên cũng chỉ để lại chút dấu vết nhỏ, thế nhưng nó lại chịu lùi bước trước cơ thể gầy yếu của Đại Trác hòa thượng. Ngày lại càng trôi qua, thân hình ông lặng lẽ chìm dần vào trong phiến đá.
Đến một đêm kia, cơ thể của Đại Trác đã hoàn toàn chìm vào trong đá, chỉ còn lộ khuôn mặt ra ngoài. Đêm hôm đó, ánh trăng bàng bạc phủ khắp mặt sông, con sông dường như yên ả hơn rất nhiều, âm thanh nước chảy rì rầm như đang khóc than kể lể. Đại Trác gọi Nhất Linh đến trước mặt, nói: "Con à, ta rất mừng là con đã lớn rồi", ánh mắt già nua của ông chứa đựng sự mãn nguyện và lòng yêu thương từ bi vô hạn. "Con là một cô nhi, ta chỉ biết con họ Vương, Nhất Linh là tên ta đặt, cũng là pháp danh của con; sau này con muốn hoàn tục thì cũng có thể dùng làm tên gọi. Nhất Linh, đêm nay là lúc ta phải rời xa con rồi. Ta đã sống một trăm lẻ tám tuổi, nửa tước cuộc đời giết người vô số, số người cứu được ở nửa sau cuộc đời ta cũng chưa từng đếm, không biết có thể chuộc lại tội nghiệt của ta không. Chờ lúc nữa xem người đến đón ta là Phật Tổ hay là Mười Tám Tiểu Quỷ của con sông này, là có thể biết được điều đó". Nói rồi ông mỉm cười.

Nhất Linh nước mắt tuôn ra như suối: "Không, sư phụ, người không thể bỏ con mà đi như thế!"
Đại Trác mỉm cười: "Con à, đây là ý chỉ của Phật Tổ, sư phụ tuy rời xa con, nhưng có rất nhiều thứ của sư phụ đều đã lưu lại trong cơ thể con, vì thế có thể nói, sư phụ sẽ mãi đồng hành cùng con."
Nhất Linh vẫn khóc nức nở, nửa hiểu, nửa lại như không hiểu những lời thầy nói. Đại Trác nhìn ánh mắt non nớt của đồ đệ duy nhất, thở dài một tiếng: "Nhất Linh, hôm nay con không nỡ rời xa sư phụ, nhưng sau này không chừng con sẽ hận ta, hận ta đã để lại những thứ đó trong cơ thể con, đã đem đến cho con rất nhiều phiền não. Song biết đâu con người sẽ thay đổi, con hãy còn nhỏ, tất cả vẫn còn chưa định hình. Con hận ta hay cảm kích ta, qua ba năm nữa là có thể biết được, nhưng ta lại hy vọng con hận ta có lẽ lại tốt hơn, bằng không..." Ông không nói tiếp nữa, ngẩng đầu lên nhìn vầng trăng lạnh lẽo, mãi một lúc lâu sau mới khẻ thở dài.
Nhất Linh ngẩn ra nhìn sư phụ, ý nghĩa trong những lời nói của sư phụ có rất nhiều điểm cậu không hiểu. Qua nhiều năm vật lộn chiến đấu với sóng nước, cậu năm nay tuy đã mười sáu, thân thể cường tráng hơn cả những thanh niên mười tám hai mươi nhưng vốn sống cách biệt một nơi, hành thiện tích đức, tâm địa Nhất Linh còn vô cùng mộc mạc thuần khiết, chỉ giống như những đứa trẻ mười một mười hai tuổi trong thị trấn mà thôi, thậm chí còn đơn thuần hơn nhiều. Lời nói của sư phụ có quá nhiều huyền cơ, cậu thực sự không thể hiểu hết được.
"Không, sư phụ. Con sẽ không bao giờ hận người!" Lời nói của cậu dứt khoát, quả đúng là ngữ khí thường thấy ở đám thiếu niên nhiệt huyết.
Đại Trác đưa ánh mắt lại nhìn Nhất Linh, vẻ mặt hiện ra nụ cười từ bi đầy yêu thương. "Được rồi con à, dù sau này con như thế nào, trước hết ta cũng phải dặn dò con một việc", ánh mắt của ông đột nhiên trở nên nghiêm trang lạ thường, Nhất Linh ngồi thẳng người lên, chăm chú lắng nghe.
"Ngày mai, con hãy đi về hướng bắc đến Thiếu Lâm Tự gặp Phượng trượng trụ trì của họ, hãy hỏi xem một người là Đại Ngu thiền sư đã mất hay chưa. Nếu như Đại Ngu chưa mất, con hãy nghĩ cách gặp ông ấy và diễn cho ông ấy xem "Khổ hải vô biên", xem ông ấy có cách phá hay không?"
"Khổ hải vô biên? Đó là gì vậy?" Nhất Linh chau mày, song ngay lập tức trong đầu bỗng loé lên một số tư thế kỳ quái của thân thể. Những tư thế này thật vô cùng cổ quái, đến mức hoạt kê; nếu không phải bị điên thì tuyệt đối không bao giờ làm những động tác như vậy.
"Việc này là như thế nào?" Nhất Linh hết sức kinh ngạc về những hiện tượng kỳ quái vừa đột nhiên xuất hiện trong đầu mình, há hốc miệng nhìn sư phụ.
Đại Trác cũng đang nhìn Nhất Linh, ánh mắt chợt loé lên như hai luồng điện, xoáy sâu thẳng vào tâm khảm cậu. Nhất Linh không khỏi lặng người ngạc nhiên bởi cậu chưa từng thấy ánh mắt như vậy của sư phụ bao giờ. Bộ dạng kinh ngạc của Nhất Linh đều không lọi khỏi mắt của Đại Trác, ông cười, ánh mắt lại trở nên già nua chứa đầy tình thương từ bi.
"Con à, con không phải sợ, những tích lũy cả đời của sư phụ đều đã truyền sang người con, rất nhiều thứ rồi, nhưng cũng không phải chỉ có thế thôi đâu." Dừng một lúc, ông lại tiếp: "Bất luận Đại Ngu có cách phá hay không thì con đều phải trở về, trở lại trên sông để tiếp tục nối công việc của sư phụ. Những thứ trong đầu con chỉ cần không gặp kích thích chúng sẽ không tự hiện ra đâu, hãy để cho chúng theo cùng con, tự sinh tự diệt vậy. Đó là ý trời không thể làm gì hơn được."
Đại Trác ngừng một lúc, nói tiếp: "Đại Ngu hòa thượng nếu như đã mất thì con phải đến núi Thái Sơn, chờ đến ngày mùng hai tháng hai năm trới, ngày Rồng ngẩng đầu, anh hùng thiên hạ tụ hội trên đỉnh Thái Sơn, con hãy chú ý quan sát xem có một con kim thứu khổng lồ bay đến không. Nếu có, con hãy biểu diễn chiêu "Hồi đầu thị nại" cho người cưỡi kim thứu xem, liệu bà ta có thể phá được hay không. Nếu như không có, thì con hãy trở về cùng sư phụ."
Lúc Đại Trác nói đến bốn chữ "Hồi đầu thị nại", trong đầu Nhất Linh đột nhiên hiện ra một số tư thế cầm kiếm, mặc dù từ trước đến giờ cậu chưa từng nhìn thấy kiếm, song cậu cảm thấy những động tác này đều uyển chuyển mỹ lệ vô sog, nếu như chính mình thể hiện nhất định cũng sẽ rất đẹp.
Đại Trác nhìn về phía chân trời xa xa, chậm rãi nói: "Bà ta nhất định sẽ tới! Nhất Linh con, đường đời của con đã được định trước là không hề bằng phẳng". Ông nhìn vào trong mắt Nhất Linh, ánh mắt ngây thơ giống như một tờ giấy trắng, cũng giống như một miếng ngọc lấp lánh tinh quang, Đại Trác thở dài lắc đầu: "Nhất Linh, con đã khổ vì ta rồi, những ma đầu kia không ai là không có bản lĩnh kinh thiên động địa, có ai lại chịu dễ dàng quy phục người khác đâu! Đã chịu tủi cực suốt bốn mươi năm, có ai lại không muốn ra mặt để trút oán khí chứ? Hãy!" Ông lại thở dài, nhìn ra xa, mặt sông phía xa dường như gợn lên từng lớp sóng.
Đại Trác nhắm mắt lại, rất lâu, ông không nói tiếp nữa. Trăng đã treo lơ lửng giữa trời. Đột nhiên ông mở to mắt: "Ai di đà phật, Nhất Linh, hãy đến bờ sông lấy cho ta thùng nước."
"Dạ". Nhất Linh ứng tiếng, đứng dậy đi lấy nước, trong lòng cảm thấy kỳ lạ: "Sư phụ cần nước làm gì?".
Đến bờ sông, vừa mới dìm thùng nước xuống, bỗng bên tai cậu vang lên giọng từ bi của sư phụ: "Nhất Linh, sư phụ đi đây. Sư phụ đã tự làm bia mộ cho mình, con hãy xả nước lên là được rồi. Ngày mai khi mặt trời lên, con hãy lên đường, Nhất Linh, con ngoan của ta, hãy tự bảo trọng."
"Sư phụ!" Nhất Linh gào lên đau đớn, quay người chạy về. Trong cơn thảng thốt, cậu đã vận đến tận cùng sức lực, người bỗng cất lên lướt đi như một luồng chớp sáng, có điều chính cậu lại không hề để ý đến điều đó.
Trước phiến đá xanh đã không còn thấy thân thể của Đại Trác, mặt đá giờ đây phẳng tuột như gương. Nếu không tận mắt trông thấy, chắc không ai dám tin lúc nãy phiến đá ấy còn lõm vào, bên trong còn có một lão hòa thượng đang ngồi. Lão hòa thượng ấy phút chốc như đã biến đi, phiến đá trở lại hình dạng ban đầu, như đã được một sức mạnh siêu nhiên san phẳng vậy. Một ý nghĩ đột nhiên hiện lên trong đầu. Ý nghĩ đó mách bảo Nhất Linh, sư phụ đã dùng Thiên Long trảo cào vụn phiến đá trước mặt, sau đó hấp thu vào bên trong cơ thể, tạo cho bản thân một chiếc quan tài đá có một không hai.
"Sư phụ!" Nhất Linh lao tới phiến đá, bột đá xanh lạnh ngắt đã ngăn cách cậu với thân thể ấm áp và ánh mắt hiền từ của sư phụ. Cậu hận vì không thể rửa bỏ bụi đá để đưa sư phụ ra, nhưng lý trí lại mách bảo cậu rằnag không thể làm như thế.
Nhất Linh khóc thảm thiết, tiếng nước sông rì rầm vọng vào khe núi như cũng đang than vãn tiễn đưa Đại Trác. Rất lâu sau, Nhất Linh mới chậm rãi quay trở lại bờ sông, xách nước từ từ dội lên phiến đá. Nước tràn trên mặt đá, bột đá phát ra những tiếng lách tách, chuyển từ xám sang trắng, rồi từ trắng sang xanh, cuối cùng biến thành một màu giống như màu của cả phiến đá và cũng trở nên cứng chắc như vậy.
"Đây là do dương hỏa của Thiên Long thần công đang phát sinh tác dụng, dương hoả gặp nước có thể luyện đá cứng như thép". Một ý nghĩ bỗng hiện ra trong đầu Nhất Linh.
"Sư phụ!" Nhất Linh quỳ xuống đập đầu chín lạy, rồi ngồi dậy lặng im nhìn vào phiến đá, dần dần phiến đá ấy dường như tan đi, hình ảnh sư phụ lại xuất hiện trước mặt cậu, vẫn với dáng vẻ mỉm cười hiền từ như trước.
Mặt trời đã lên, ánh nắng bao phủ khắp dòng sông, lấp lánh những tia phản chiếu như đàn rắn bạc đang đua nhau trườn đi. Ánh nắng chiếu lên phiến đá, hoa nắng nhảy múa. Nhất Linh sực tỉnh lắc đầu, trước mặt chỉ là phiến đá xanh mà không còn bóng dáng sư phụ."
"Người đã không còn nữa." Nhất Linh tự nói với mình, trong trái tim non nớt ẩn chứa một nỗi đâu không thể nói thành lời, cậu quay đầu nhìn lên mặt trời, ánh nắng gay gắt chiếu đập vào mắt.
"Sư phụ, con nghe lời người, bây giờ lập tức lên đường đến Thiếu Lâm." Nhất Linh sụp xuống dập đầu ba cái rồi đứng dậy thu xếp hành lý. Thực ra cậu cũng không có gì cần thu xếp ngoài hai bộ quần áo thay đổi và vài mẩu bạc vụn. Hai thầy trò cứu người vô số, người đến tạ ơn biếu tặng không biết bao nhiêu ngân lượng, nhưng Đại Trác nếu không từ chối thì lại đem cứu tế cho những nạn nhân khác mà không hề tích luỹ gì. Nhất Linh thu xếp một tay nải khoác lên vai, rồi dừng lại bịn rịn trước bia mộ của sư phụ, sau đó mới bước ra khỏi miếu.
Đúng lúc ấy, mấy bóng người từ phía xa vụt chạy tới, thân pháp nhanh nhẹn không giống thường nhân, chắc hẳn phải là người trong võ lâm. Mấy người đó chạy thẳng tới ngôi miếu nhỏ. Nhất Linh dừng bước quan sát, họ tất cả có sáu người, một người vận cẩm y chừng bốn mươi tuổi, một thiếu niên trạc mười lăm, mười sáu và bốn võ sĩ tráng kiện. Người mặc cẩm y mang kiếm, bốn võ sĩ kia cầm đao, trên người loang lổ những vết máu, áo quần tả tơi, hẳn là vừa trải qua một cuộc chiến ác liệt. Thiếu niên kia lại không hề hấn gì, phục sức quý phái, trông rất bảnh bao.
Sáu người chạy đến gần phía trước Nhất Linh, ánh mắt người mặc cẩm y như điện đảo qua trên khuôn mặt cậu, hỏi: "Người là hòa thượng trong miếu phải không?" Nhất Linh gật đầu. Người này quay đầu nhìn sang vị thiếu niên nọ, nói: "Thiếu chủ, hãy vào trong miếu này nghỉ một lát." Rồi lại nhìn Nhất Linh: "Tiểu sư phụ, cho xin bát nước uống!"
Thực sự trong lòng Nhất Linh khi ấy không hề muốn người ta đến là phiền sư phụ, nhưng là người đã quen làm việc thiện nên sau một chút do dự cậu mới quay người đi vào trong miếu.
"Đứng lại!" Đột nhiene thiếu niene nọ quát.
"A di đà phật". Nhất Linh quay người hành lễ: "Thí chủ có điều gì căn dặn?"
"Ngươi đeo tay nải làm gì? Ngươi không phải là hòa thượng trong miếu này?" Thiếu niên kia mặt mày thanh tú, tướng mạo khôi ngôi, ánh mắt sắc bén chằm chằm nhìn Nhất Linh.
"A di đà phật, tiểu tăng đúng là hòa thượng trong miếu này, mang tay nải là chuẩn bị đi."
"Đi đâu?"
"Về hướng bắc."
"Là nơi nào?" Thiếu niên kia hỏi dồn, ngữ khí nghiêm khắc như người đang thẩm tra phạm nhân. Nhất Linh từ lâu đã được giáo huấn lòng khoan dung, vẫn chưa biết thế nào là nổi giận, hơi do dự một lát, nói: "Đến Thiếu Lâm Tự".
Thiếu Lâm Tự danh tiếng uy chấn thiên hạ, cả sáu người kia đều không khỏi giật mình. Thiếu niên nọ lẳng lặng hừm lên một tiếng, nói: "Không ngờ vị tiểu hòa thượng này lại là đệ tử của Thiếu Lâm."
Nhất Linh lắc đầu: "Không phải."
Thiếu niên cảm thấy kỳ lạ: "Vậy ngươi lên Thiếu Lâm làm gì?"
Nhất Linh nói: "Là sư phụ bảo tôi đi!"
Người mặc cẩm y kia đột nhiên xen vào: "Ta biết rồi, sư phụ cậu là Đại Trác Bồ Tát, thế sư phụ cậu đâu?"
Nhất Linh mắt đỏ hoe: "Sư phụ đã viên tịch rồi, ai di đà phật."
"A di đà phật, đáng tiếc, đáng tiếc!" Người mặc cẩm y đó cũng tuyên một câu phật hiệu, gật đầu với thiếu niên kia tỏ ý có thể tin tưởng được, không cần phải nghi ngờ.
Thiếu niên đó vẫn không chịu vào trong miếu, đảo mắt một vòng trên người Nhất Linh rồi ghé sát tai người mặc cẩm y kia nói thầm điều gì đó. Người đàn ông đó sắc mặt tỏ vẻ khó khăn, nói: "Sợ cậu ta không chịu, hơn nữa... cũng khôlng giống."
Thiếu niên đó quắt mắt lên: "Chút việc này cũng không làm nổi thì ông còn có thể làm được gì nữa?
Cẩm y đại hán mặt đỏ bừng lên, có chút đắn đo suy nghĩ, đoạn bước lên trước, trong tay đã cầm sẵn mấy lá vàng, nói: "Thiếu chủ nhà chúng tôi sớm đã nghe danh Đại Trác bồ tát từ bi, được biết đại sư đã viên tịch, trong lòng thương cảm vô cùng, một chút thành ý để bày tỏ tiếc thương, mong tiểu sư phụ nhận cho."
Nhất Linh cảm động trong lòng, chắp tay hành lễ, không nhận mấy lá vàng đó, nói: "Lòng thành của thí chủ, tiểu tăng xin thay sư phụ cảm ơn, nhưng vàng này tiểu tăng không thể nhận được."
Người đàn ông mặc cẩm y vội nói: "Xin tiểu sư phụ hãy nhận những lá vàng này đã, chúng tôi còn có chuyện muốn tiểu sư phụ giúp đỡ."
Nhất Linh nói: "Số vàng này tiểu lăng quả không thể nhận. Thí chủ kính trọng sư phụ của tiểu tăng, tiểu tăng cảm kích bội phần, thí chủ có việc gì xin cứ nói, tiểu tăng nhất định sẽ dốc hết tâm sức." Cậu kính trọng sư phụ nên cũng tràn đầy thiện cảm với những người kính trọng ông, vốn lại là người quen làm việc thiện nên không suy nghĩ trước sau, lập tức khẳng khái nhận lời.
Cẩm y đại hán liếc nhìn Nhất Linh, vẻ khó nói: "Việc này rất khó..." Chưa nói dứt, đột nhiên lại thở dài: "Ài, thôi được rồi, hay là cứ để chúng tôi tự lo liệu vậy."
Nhất Linh vội nói: "Tiểu tăng không sợ khó, xin thí chủ cứ nói!"
Người đó chần chừ một hồi mới cất tiếng: "Thực ra cũng không phải là chuyện gì to tát, tiểu chủ nhân nhà tôi tuổi trẻ khí thịnh, đã trượng nghĩa đánh một tên ác bá cậy

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net