NƠI TẬN CÙNG TRÁI ĐẤT

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

"Ai đó? Artyom đi xem đi!"

Artyom đứng dậy một cách đầy miễn cưỡng khỏi chỗ ngồi cạnh đống lửa và xoay khẩu súng máy ra phía trước ngực, tiến thẳng vào bóng tối. Cậu đứng phía bên phải ngay mép chỗ khu vực được chiếu sáng, trong nỗi sợ hãi tột độ, cậu lên đạn và hét lớn, “Dừng lại! Mật hiệu!”

Cậu bỗng nghe tiếng bước chân nhanh và ngắt quãng trong bóng tối ngay cái nơi mà cách đó vài giây là tiếng xào xạc kì lạ và những tiếng rầm rì. Ai đó đang rút vào sâu trong đường hầm, sợ hãi bởi giọng nói và tiếng lạch cạch phát ra từ khẩu súng của Artyom. Cậu vội vàng quay lại đống lửa và ném câu trả lời vào Pyotr Andreevich:

“Không ai cả. Không ai ở phía trước. Không có phản hồi gì, chúng vừa chạy đi”

“Tên ngu này! Cậu đã được cảnh báo rất rõ rồi. Nếu chúng không trả lời, bắn ngay lập tức! Sao cậu biết đó là ai hả? Có thể những con Dark One đang ở gần đây!”

“Không… Tôi không nghĩ bọn chúng là con người… Những âm thanh rất lạ… và tiếng bước chân cũng không giống con người. Gì? Anh nghĩ tôi không biết tiếng chân người như thế nào à? Và dù sao đi nữa, thì tụi Dark One có bao giờ bỏ chạy như thế chưa? Anh biết mà, Pyotr Andreevich. Gần đây bọn chúng lao tới mà chẳng ngần ngại gì. Chúng tấn công một đội tuần tra tay không tấc sắt, lao thẳng vào súng máy đang phun lửa. Nhưng thứ này, nó bỏ chạy ngay… Như một con vật đang hoảng sợ vậy.”

“Được rồi, Artyom! Trí thông minh của cậu đang khiến tôi lo lắng đấy. Nhưng cậu đã được hướng dẫn – vì thế hãy làm theo, đừng nghĩ ngợi gì. Có thể đó là một tên trinh sát. Và giờ thì hắn đã biết một vài người đang ở đây và cả số đạn dược… Chúng chỉ cần quét sạch chúng ta khỏi nơi này và đây là khúc vui nè. Chúng đặt dao lên cổ họng chúng ta, và đồ sát sạch sẽ cái nhà ga này, giống như ở Polezhaevskaya ấy – và tất cả là do cậu đã không loại bỏ con chuột cống đó… Nghe đây! Lần tới tôi sẽ bắt cậu phải đuổi theo chúng vào tận sâu bên trong đường hầm!”

Câu nói đó làm Artyom rùng mình khi cậu mường tượng về đường hầm dài đằng đẳng sau mốc bảy trăm mét. Thật kinh khủng khi nghĩ về nó. Không ai có gan đi xa hơn mốc bảy trăm mét về phía Bắc. Các đội tuần tra đã đi tới cột mốc năm trăm mét và chiếu sáng ngay mốc ranh đó bằng đèn chiếu sáng dùng trong sân khấu được đặt trên xe đẩy hàng và họ tự thuyết phục mình rằng sẽ không có thứ nhơ nhuốc, cặn bã nào có thể băng qua được, sau đó họ vội vàng quay trở lại. Ngay cả những trinh sát có vóc dáng lực lưỡng, những cựu lính thủy – cũng sẽ dừng lại ở mốc sáu trăm tám mươi mét. Họ sẽ xoay những điếu thuốc đang cháy trên các đầu ngón tay và đứng yên đó, dán chặt người vào những dụng cụ quan sát đêm. Và rồi, họ từ từ, chậm rãi lùi về sau, mắt dán chặt vào đường hầm phía trước và không bao giờ quay lại mốc đó nữa.

Bọn họ hiện nằm trong đội tuần tra ở khu vực mốc bốn trăm năm mươi mét, chốt này cách khoảng năm mươi mét tính từ mốc ranh. Mốc ranh này được kiểm tra một lần một ngày và hôm nay việc kiểm tra đã xong từ nhiều tiếng trước. Giờ đây chốt ranh của họ ở xa nhất và kể từ lần kiểm tra gần đây, những con quái thú mà đội tuần tra trước đã sợ hãi chắc chắn sẽ lần mò tới gần một lần nữa. Bọn chúng bị thu hút bởi lửa, bởi con người…

Artyom ổn định lại chỗ ngồi của mình và hỏi:  “Thế thực sự chuyện gì đã xảy ra ở Polezhaevskaya?”

Mặc dù cậu đã biết rõ về câu chuyện khủng khiếp (được kể từ những tay buôn ở nhà ga, cậu vẫn có một sự thôi thúc muốn nghe nó lại lần nữa, như một đứa trẻ cảm thấy một sự thôi thúc không thể cưỡng lại để được nghe những câu chuyện kinh dị về những loài đột biến không đầu và những con Dark One bắt cóc lũ trẻ con.

“Ở Polezhaevskaya? Gì chứ, cậu chưa nghe về nó à? Nó là một câu chuyện kỳ lạ. Kỳ lạ và đáng sợ. Những trinh sát đầu tiên của họ bắt đầu biến mất. Rời khỏi những đường hầm và không bao giờ quay trở lại. Nghe nói, những trinh sát của họ ngụy trang bằng màu xanh lục, không hề giống với chúng ta, nhưng rồi sau đó, khu nhà ga của họ ngày một thu hẹp lại, càng ít người sống ở đó… ờ thì, đã từng sống. Nói gì đi nữa thì những trinh sát của họ bắt đầu biến mất. Một đội quân rời đi – và biến mất. Lúc đầu họ nghĩ có thứ gì đó giữ nhóm trinh sát trên đó – những đường hầm phía trên cũng quanh co và nhiều ngã rẽ như ở đây…” Artyom cảm thấy lo lắng khi nghe những từ đó. “Và không còn đội tuần tra nào, không ai ở nhà ga thấy bất cứ điều gì, dù cho họ có rọi đèn tới bao nhiêu đi nữa. Không ai xuất hiện – trong ba mươi phút, rồi một tiếng, hai tiếng. Họ tự hỏi những trinh sát có thể đi đâu – họ chỉ đi có thể đi xa một km thôi. Họ không được phép đi xa hơn, những trinh sát không phải những kẻ ngu… Câu chuyện dài lắm nên tôi sẽ nói tóm tắt lại, lúc đó họ không thể chờ đợi được nữa. Họ phái quân chi viện đi, tìm kiếm và tìm kiếm, hét và hét – nhưng mọi thứ đều vô ích. Đội tuần tra mất tích. Đội trinh sát biến mất. Và không một ai biết được chuyện gì đã xảy ra với bọn họ. Phần tệ nhất là họ không nghe thấy một âm thanh nào… không hề có một âm thanh nào phát ra. Hoàn toàn biến mất không một dấu vết”

Artyom bắt đầu thấy hối hận khi yêu cầu Pyotr Andreevich tường thuật lại câu chuyện ở Polezhaevskaya. Pyotr Andreevich cho biết nhiều thông tin hơn, hoặc cũng có thể thêm thắt một số chi tiết; nhưng dù thế nào, anh ta cũng kể những chi tiết mà những tay buôn ước gì được biết, dù bọn họ là những bậc thầy và là những kẻ kể chuyện đầy đam mê. Chi tiết trong câu chuyện mà Pyotr Andreevich kể khiến Artyom rùng mình, và cậu cảm thấy không thoải mái thậm chí đang ngồi cạnh đống lửa. Giờ đây bất cứ tiếng xào xạc nào phát ra từ đường hầm, dù cho đó là thứ vô hại nhất, cũng khiến trí tượng tượng của cậu nhảy múa.

“Vậy đấy. Họ không nghe bất cứ tiếng súng phun lửa nào vì thế họ quyết định rằng những trinh sát đơn giản là rời bỏ bọn họ – có lẽ những trinh sát đó thấy thất vọng về một điều gì đó, và quyết định bỏ đi. Kiểu cảm thấy chán chường. Nếu họ muốn một cuộc sống đơn giản, nếu họ muốn chạy lòng vòng với đủ thứ thành phần bất hảo, thì cứ để mặt họ nô đùa thỏa thích thôi. Một người suy nghĩ đơn giản sẽ nhìn sự việc theo cách đó. Rất đơn giản. Nhưng một tuần sau, một nhóm trinh sát khác lại biến mất. Và nhóm này được cho rằng không đi đâu xa hơn một nửa kilomet từ nhà ga. Và lần nữa, câu chuyện tương tự lại xảy ra. Không âm thanh, không dấu vết. Cứ như những trinh sát đó biến mất vào hư không vậy. Vì thế họ bắt đầu có những lo lắng ở chính nhà ga của họ. Lúc này họ đã gặp rắc rối thật sự – hai đội trinh sát của họ biến mất trong vòng một tuần. Họ phải làm điều gì đó. Họ phải tìm ra cách xử trí. Họ bắt đầu lắp đặt một rào chắn ở mốc thứ ba trăm mét. Họ treo những túi cát lên rào chắn đó, đặt súng máy và đèn – tuân thủ theo những quy tắc trong quân sự. Họ cử một người chạy đến Begovaya – họ đã thành lập môt liên minh với Begovaya và Đường 1905. Thật ra, Cánh đồng tháng 10 cũng tham gia, nhưng rồi có gì đó đã xảy ra, không ai biết chính xác là gì – kiểu như một loại tai nạn. Điều kiện ở đó không thể sinh sống được và tất cả đã trốn đi nơi khác.

Nhân tiện thì, sau khi họ phái một người chạy đến Begovay để cảnh báo những người ở đó, như họ nói, về vấn đề đang diễn ra và yêu cầu sự giúp đỡ, thì có chuyện đã xảy ra. Người đưa tin đầu tiên chỉ vừa tới Begovay – và những người đó vẫn đang xem xét đưa ra câu trả lời của họ – thì người đưa tin thứ hai xuất hiện ở Begovaya, người ướt đẫm mồ hôi, và nói rằng rào chắn được gia cố thêm trở nên vô dụng, không có khẩu súng nào được sử dụng. Từng người một bị thảm sát. Và như thể là họ bị giết trong lúc ngủ – thật đáng sợ! Nhưng họ làm gì mà ngủ được chứ, không thể ngủ sau những gì họ đã trải qua, chưa kể tới những mệnh lệnh và hướng dẫn này nọ nữa. Lúc này, người ở Begovaya hiểu rằng nếu họ không hành động, chuyện tương tự sẽ diễn ra với họ. Họ trang bị một lực lượng cựu chiến binh, khoảng một trăm người, cùng súng máy và súng phóng lựu. Dĩ nhiên là mất một ít thời gian, khoảng một ngày rưỡi, và họ đã cử nhóm đó đi giúp đỡ. Khi nhóm được cử đi vào Polezhaevskaya, họ không thấy ai còn sống. Thậm chí chẳng có một thi thể nào – chỉ toàn máu là máu. Đó. Ai mà biết thứ quái quỷ nào đã làm chứ. Đối với tôi, tôi không tin con người có khả năng gây ra những việc như thế.”

“Và chuyện gì đã xảy ra với Begovaya?” giọng nói của Artyom nghe không còn bình thường nữa.

“Chẳng có gì xảy ra với họ. Họ đã nhìn ra cách giải quyết và cho nổ sập đường hầm dẫn đến Polezhaevskaya. Tôi nghe cỡ bốn mươi mét đường hầm bị đổ sập; không có thứ gì có thể đào xuyên qua đống đổ nát đó ngoại trừ các loại máy móc đặc biệt, và thậm chí là có cái máy đó đi nữa, tôi cá với cậu là cũng chẳng đào được xa bao nhiêu… Nhưng cậu sẽ tìm thấy cái loại máy như thế ở đâu chứ? Máy móc của chúng ta đã rệu rã cách đây mười lăm năm rồi…”

Pyotr Andreevich im lặng, nhìn chăm chú vào đống lửa. Artyom ho to một tiếng rồi nói:

Vâng… Tôi lẽ ra nên bắn vào thứ đó… Tôi là một thằng ngu.

Một tiếng la lớn đến từ hướng Nam, thẳng hướng với nhà ga:

"Này, mốc bốn trăm mét! Mọi chuyện ở đó ổn chứ?”

Pyotr Andreevich cầm chặt cái loa tay và la lớn trả lời:

“Đến đây! Chúng tôi đang gặp rắc rối ở đây!”

Ba dáng người tiến vào đường hầm, từ nhà ga, ánh sáng phát ra từ đèn pin của họ – có lẽ là những thành viên đội tuần tra từ mốc ba trăm mét. Bước vào vùng sáng của ánh lửa, họ tắt đèn pin và ngồi xuống.

“Này, Pyotr! Vì anh đang ngồi đây. Nên tôi đang tự hỏi là – họ đã phái ai đến tận rìa Trái Đất hôm nay?” một người tuần tra lão làng, đang mỉm cười và lấy ra một điếu thuốc từ túi của mình.


“Nghe này, Andryukha! Một trong những người của tôi đã nhìn thấy ai đó đằng sau kia. Nhưng cậu ta không bắn nó… Nó đã trốn vào đường hầm. Cậu ta nói nó không giống con người.”

“Không giống con người? Thế nó trông thế nào?” Andrey quay sang Artyom.

“Tôi thậm chí còn không nhìn thấy nó… Tôi đã hỏi mật hiệu, và nó chạy biến, hướng về phía Bắc. Nhưng tiếng bước chân không phải con người – chúng nhẹ và rất nhanh, như thể có bốn thay vì hai chân ấy…”

“Hoặc ba!” Andrey vừa nháy mắt, vừa giễu Artyom bằng một khuôn mặt đáng sợ.

Artyom cảm thấy nghẹn ở cổ, nhớ lại những câu chuyện về những thứ ba chân từ tuyến Filevskaya, nơi mà một vài nhà ga đi thẳng lên mặt đất và đường hầm không chạy sâu lắm bên dưới, vì thế họ hầu như không được bảo vệ khỏi phóng xạ. Có những thứ ba chân, những thứ lại có hai đầu và tất cả những thứ quái dị kinh khiếp đã bò trườn khắp nơi ở cái hệ thống tàu điện ngầm này bằng những bộ phận đó.

Andrey lấy ra một bao thuốc lá và nói, “Được rồi các chàng trai, vì chúng tôi đã ở đây rồi thì tại sao không ngồi đây một lúc nhỉ? Nếu có thứ gì ba chân bò tới đây một lần nữa, chúng tôi sẽ giúp một tay. Này, Artyom! Có ấm đun nước chứ?”

Pyotr Andreevich đứng dậy và đổ một ít nước từ một cái bình bằng kim loại vào cái ấm đun nước đã hư hỏng nặng và bám đầy bồ hóng, rồi đặt nó lên ngọn lửa. Vài phút sau, cái ấm réo lên khi nước bên trong bắt đầu sôi. Cái âm thanh đó, quá thân thuộc và thoải mái, nó giúp Artyom cảm thấy ấm áp và bình tâm hơn. Cậu nhìn chăm chú vào những người đang ngồi cạnh đống lửa: tất cả họ đều là những người có ý chí độc lập lớn lao, sự rắn rỏi được tôi luyện từ cuộc sống đầy thách thức, thứ đã đưa họ đến đây. Bạn có thể tin tưởng những người như thế này; bạn có dựa dẫm vào họ. Nhà ga của họ luôn có danh tiếng về sự thành công nhất dọc theo toàn bộ tuyến metro này – và đó là nhờ những người ở đây và những người khác giống như họ. Tất cả đều được kết nối với nhau bằng sự ấm áp, như tình anh em keo sơn.

Artyom chỉ hơn hai mươi tuổi và đã đến thế giới này khi cuộc sống vẫn diễn ra bình thường trên mặt đất. Cậu không ốm và nhợt nhạt như những người được sinh ra ở metro, những người sẽ không dám liều mình đi lên mặt đất vì nỗi sợ phóng xạ và cái nắng thiêu đốt của ánh mặt trời, cái thứ ánh sáng cực kỳ nguy hại cho những kẻ sinh sống dưới lòng đất. Thật sự là vậy, thậm chí là Artyom, theo những gì cậu có thể nhớ, đã từng lên mặt đất duy nhất một lần và chỉ vỏn vẹn trong một vài giây thôi – tia phóng xạ ở đó quá khủng khiếp tới nỗi bất cứ ai chỉ cần tò mò một chút thôi cũng sẽ hoàn toàn bị nướng chín trong vòng một vài tiếng, trước khi có thể xoay sở để tận hưởng một cuộc tản bộ đầy thích thú và thu vào tầm mắt một thế giới kỳ lạ ở trên mặt đất.

Cậu hoàn toàn không nhớ cha mình. Mẹ cậu đã ở với cậu cho tới khi cậu năm tuổi. Họ sống ở Timiryazevskaya. Ở đó rất tốt và cuộc sống thật dễ chịu và bình yên cho tới khi Timiryazevskaya trở thành nạn nhân của những con chuột cống bị nhiễm độc.

Một ngày nọ, những con chuột to lớn, xám ngoét và ướt nhẹp chui ra từ một trong những đường hầm ở phía tối của nhà ga mà không có bất cứ cảnh báo nào. Nó là đường hầm tách rời khỏi nhánh chính, là nhánh đường hầm đã bị lãng quên của mạch chính được xây dựng đầu tiên ở phía Bắc, chạy sâu xuống lòng đất, và rồi mất hút trong một mạng lưới chằng chịt của hàng trăm hàng lang tàu điện ngầm – những mê cung kinh hãi đầy lạnh lẽo và hôi thối. Đường hầm này chạy thẳng vào vương quốc của lũ chuột cống, nơi mà ngay cả một người mê đắm phiêu lưu đây đó đến vô phương cứu chữa cũng không dám đi vào. Thậm chí một kẻ lang thang rồi bị lạc, không thể tìm được đường ra dù đã sử dụng bản đồ và những lối đi dưới lòng đất, cũng sẽ dừng lại ở ngưỡng này, bằng trực giác sẽ cảm nhận thấy sự đen tối và nguy hiểm chết người đang trồi lên, và kẻ đó sẽ nhanh chóng rời khỏi cái miệng dẫn lối vào đường hầm đó, như thể chạy khỏi những cánh cổng của một thành phố đang bị dịch bệnh vậy.

Không ai dám làm phiền lũ chuột. Không ai đi vào lãng địa của chúng. Không ai dám xâm phạm ranh giới của chúng.

Chúng thì đến với con người.

Nhiều người đã chết ngày hôm đó, khi những con chuột khổng lồ – to lớn hơn bất cứ con chuột nào từng được nhìn thấy ở nhà ga hoặc đường hầm – tràn qua những rào chắn và nhà ga như một cơn lũ, chôn vùi toàn bộ lực lượng bảo vệ và người dân ở đây, bóp nghẹt những tiếng la hét trước khi chết của họ bằng cơ thể khổng lồ của chúng. Ăn sạch mọi thứ trên đường đi – người sống, kẻ chết, và cả đồng loại đã chết của chúng nữa – những con chuột tiến về phía trước và xé nát mọi thứ, càng lúc càng xa, chúng hăng say, kiên định và được thúc đẩy bởi một thế lực nào đó vượt ra khỏi sự hiểu biết của con người.

Chỉ một vài người còn sống. Không phải phụ nữ, người già hay trẻ em nào – không phải những người mà bình thường sẽ được ưu tiên giải cứu đầu tiên, mà là năm người đàn ông khỏe mạnh đã xoay sở để thoát khỏi cơn lũ tàn sát đang quét qua. Và lý do duy nhất họ thoát khỏi nó là vì họ đã ở gần một cái xe đẩy, trong một ca trực ở đường hầm phía Nam. Khi nghe những tiếng la hét từ nhà ga, một trong số họ đã chạy nhanh về phía đó để xem có chuyện gì. Timiryazevskaya đang dần sụp đổ lúc anh ta nhìn thấy nó khi vừa bước vào nhà ga. Ở lối vào nhà ga, anh ta hiểu những gì đã xảy ra khi một vài những con chuột lọt vào trong sân ga và rồi anh ta quay trở lại, biết rằng mình không thể giúp gì cho những người đang bảo vệ nhà ga, bỗng cánh tay anh bị tóm lại từ đằng sau. Anh quay người lại và nhìn thấy một phụ nữ, khuôn mặt cô ấy méo mó vì sợ hãi, giữ chặt vạt áo của anh, hét lớn, trong nỗ lực vượt qua rất nhiều giọng nói tuyệt vọng khác, “Cứu thằng bé, chiến sĩ! Xin rủ lòng thương!”

Anh ta nhìn thấy cô ấy đang dúi vào tay anh một bàn tay trẻ con, một bàn tay nhỏ nhắn, múp míp và anh đã tóm lấy bàn tay đó mà không nghĩ rằng mình đang cứu mạng một ai đó. Anh ta kéo thẳng bé đang ở phía sau ra trước, nhấc nó lên và ôm trọn nó vào lòng, anh chạy cố sống cố chết khỏi lũ chuột đang tràn tới trong một cuộc đua tử thần – hướng thẳng phía trước, nơi có chiếc xe đẩy cùng những đồng đội trong đội tuần tra đang chờ ở đó. Anh bắt đầu hét lớn từ phía xa, ở khoảng cách khoảng năm mươi mét hoặc cỡ đó, nói họ hãy khởi động xe đẩy. Xe đẩy của họ là loại động cơ, là cái duy nhất trong vòng mười nhà ga ở gần đó, và nó là cơ hội duy nhất để họ có thể chạy thoát khỏi lũ chuột. Những người tuần tra phóng nhanh về trước và băng qua nhà ga bị bỏ hoang Dmitrovskaya với tốc độ tối đa, nơi một vài người sống ẩn dật tìm kiếm chỗ ở, bọn họ  hét lên với những người đó: “Chạy đi! Lũ chuột! (mà không nhận ra rằng sẽ chẳng có cơ hội nào cho những người đó có thể tự cứu lấy mình). Khi họ tới được những sân ga ở Savyolovskaya (cùng với con người, cảm ơn Chúa, mọi chuyện đều ổn thỏa), họ chạy chậm lại để không bị bắn. Ở một tốc độ cao như thế hẳn là sẽ bị bắn ngay vì cho rằng bọn họ là những kẻ tấn công nào đó. Họ hét lớn hết mức có thể vào đội vệ binh, “Chuột! Lũ chuột đang đến!” Họ đã chuẩn bị để tiếp tục chạy ngay xuyên qua Savyolovskaya, và xa hơn nữa dọc theo đường ray, chuẩn bị tinh thần cầu xin để được cho qua, miễn là có nơi nào đó xa hơn để đi, miễn là cái dòng nham thạch màu xám kia vẫn chưa dâng cao nhấn chìm toàn bộ cái metro này.

Nhưng may mắn thay, có thứ gì đó ở Savyolovskaya đã cứu họ, nhà ga và có lẽ là toàn bộ tuyến Serpukhovsko – Timiryazevskaya. Khi ở gần nhà ga, người ướt nhẹp mồ hôi, bọn họ hét lớn vào đội vệ binh Savyolovskaya về việc thoát khỏi cái chết trong gang tấc của mình, thì trong lúc đó, đội vệ binh ở chốt này nhanh chóng kéo xuống một tấm bạt đang phủ lên một thiết bị trông rất ấn tượng.

Nó là thiết bị phun lửa, được lắp ráp bởi các thợ thủ công địa phương từ các phụ tùng máy móc – đồ làm bằng tay, nhưng cực kỳ mạnh mẽ. Khi làn sóng những con chuột đầu tiên xuất hiện, tụ tập lại và bạn có thể nghe âm thanh lạo xạo và tiếng cào cấu phát ra từ móng chân của hàng ngàn con chuột từ trong bóng tối, đội vệ binh bắt đầu phun lửa. Lửa sẽ không tắt cho tới khi hết nhiên liệu. Một ngọn lửa màu cam dài hơn cả chục mét rít lên lấp đầy đường hầm và đốt cháy những con chuột, đốt tất cả chúng, không ngơi nghỉ, trong mười, mười lăm, hai mươi phút. Đường hầm tràn ngập thứ mùi hôi kinh tởm từ da thịt bị đốt cháy và tiếng rít hoang dại của lũ chuột. Và đằng sau đội vệ binh của Savyolovskaya, những người đã trở thành anh hùng và có được danh tiếng ở toàn bộ tuyến metro này, chiếc xe đẩy đến một trạm dừng, từ từ dừng lại. Trên đó là năm người đàn ông đã trốn thoát khỏi nhà ga Timiryazevskaya, và có thêm một sinh mạng nữa – đứa trẻ họ đã cứu. Một cậu bé. Artyom.

Lũ chuột lút rui. Cơn cuồng nộ của chúng đã bị phá vỡ bởi một trong những phát minh quân sự thiên tài cuối cùng của con người. Con người luôn là loài giết chóc giỏi hơn bất kì sinh vật sống nào.

Lũ chuột lũ lượt trở lại vương quốc rộng lớn của chúng, không một ai biết được kích thước thật sự của vương quốc đó. Tất cả những mê cung này, nằm sâu bên dưới lòng đất, quá bí ẩn và có vẻ như nằm ngoài sự vận hành của metro này. Khó mà tin được, mặc dù đã có sự xác nhận của rất nhiều người trong chính quyền, rằng tất cả công trình này đều được xây dựng bởi những con người hết sức bình thường.

Như một người trong chính quyền đã từng làm công việc phụ giúp chỉ huy tàu trên một tàu điện cách đây rất lâu. Không có nhiều người làm công việc như anh ta và vì thế những người như anh ta rất đáng giá, họ đã chứng minh rằng mình là những người duy nhất có thể đạt được mục tiêu bằng mọi cách. Họ không thấy sợ hãi dù đang ở bên ngoài những chiếc container an toàn và thoải mái của tàu, hoặc trong những đường hầm tối tăm của hệ thống tàu điện ngầm Moscow, hoặc bên dưới lòng đất toàn đá là đá của cái thủ phủ tàu điện vĩ đại này. Mọi người ở nhà ga đều tôn trọng họ và cũng dạy con cái họ như thế; có lẽ đó là lý do mà Artyom luôn nhớ ông ấy, nhớ suốt cả cuộc đời: một người đàn ông gầy gò, hốc hác, hao mòn vì

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net