Không Tên Phần 4
nhà vị lợi, việc sử dụng chứng cớ gián
tiếp có thể gây hậu quả không mong
muốn là bỏ tù người vô tội.
Lại một lần nữa, những người thực tế
hơn trong chúng ta có thể hỏi, "Ai cần
quan tâm đến
lý do
khiến chúng ta bàn về
chứng cớ gián tiếp một cách thận trọng
như vậy?" Một cách thiết thực, chúng ta
chỉ cần vạch ra tính chất không đáng tin
cậy của nó, như người phụ nữ trong câu
chuyện sau đây đã làm. [Lưu ý cách vận
dụng phép phản chứng (
reductio ad
absurdum)
rất khôn ngoan của cô ấy].
Một đôi vợ chồng đi nghỉ ở một khu
nghỉ dưỡng câu cá. Trong khi chàng chợp
mắt, nàng quyết định lấy thuyền của
chàng bơi ra hồ và đọc sách. Trong khi
nàng đang tắm nắng thì có một cảnh sát
bơi thuyền đến và bảo,
"Ở đây không
được câu cá, thưa bà. Tôi phải bắt giữ
bà."
Nàng nói, "Nhưng thưa ông, tôi có câu
cá đâu?"
Cảnh sát trưởng nói, "Thưa bà, bà có
tất cả dụng cụ cần thiết. Tôi buộc phải
bắt giam bà."
Nàng nói, "Nếu ông làm thế, thưa ông,
tôi sẽ phải tố cáo ông tội cưỡng hiếp."
"Nhưng tôi chưa hề chạm đến người
bà," viên cảnh sát nói.
"Tôi biết," nàng nói, "nhưng ông có
đủ dụng cụ cần thiết."
Tuy nhiên vẫn tồn tại những nguyên
tắc pháp lý trở nên rất khác biệt tùy
thuộc vào việc chúng ta áp dụng lý thuyết
nào trong số ba lý thuyết nêu trên, như
trong câu chuyện sau đây:
Một quan tòa gọi hai luật sư của hai
bên đến văn phòng của ông và nói, "Lý
do tôi gọi các anh hôm nay là hai anh
đều đã hối lộ tôi." Hai luật sư cùng ngọ
nguậy trên ghế. "Anh, Alain, đã đưa tôi
15.000$. Phil, anh đã đưa 10.000$."
Quan tòa trao cho Alain một tấm séc
trị giá 5.000$ và nói, "Bây giờ các anh
ngang nhau, và tôi sẽ hoàn toàn dựa vào
công lý để phán quyết vụ này."
Nếu mục đích của việc cấm hối lộ chỉ
là để loại trừ tình trạng vi phạm nghĩa vụ
xét xử công bằng đối với tất cả các bên,
thì chúng ta có thể đồng ý với ông quan
tòa rằng việc nhận mức hối lộ ngang
nhau có cùng kết quả như không nhận hối
lộ. Cũng như vậy, nếu mục đích của việc
cấm hối lộ là để đảm bảo đem lại những
kết quả tốt đẹp một cách công bằng cho
mọi người. Nhưng sẽ khó khăn hơn nhiều
nếu lập luận rằng nhận hối lộ ngang nhau
sẽ khuyến khích đức hạnh ở cả quan tòa
lẫn các luật sư. Lạ thật, sao chúng ta có
thể dông dài mãi mà không kể một câu
chuyện cười về các luật sư nhỉ? Ồ,
nhưng cần gì băn khoăn, chúng ta chỉ là
những con người thôi mà.
Một luật sư gửi thư cho thân chủ của
mình: "Frank thân mến: Tôi nghĩ hôm
qua tôi trông thấy anh ngoài phố. Tôi đã
băng qua đường để chào anh, nhưng hóa
ra không phải. 1/10 giờ: 50$."
oOo
DIMITRI: Cậu khiến tôi hào hứng rồi
đấy, Tasso ạ. Tôi đã quyết định ứng cử
vào Lực lượng cảnh sát đạo đức. Cậu có
ủng hộ tôi một phiếu không?
TASSO: Tất nhiên, bạn ạ. Nếu cuộc
bầu cử tiến hành bằng bỏ phiếu kín.
IX
TÍNH TƯƠNG ĐỐI
Chúng ta có thể nói gì nhỉ? Thuật ngữ
này có những nghĩa khác nhau đối với
những người khác nhau.
DIMITRI: Vấn đề rắc rối ở cậu,
Tasso ạ, là cậu nghĩ nhiều quá.
TASSO: So với ai?
DIMITRI: Ờ, so với lực sĩ Achilles.
TASSO: Thế so với Socrates thì sao?
DIMITRI: Ô kê, cậu lại thắng rồi. So
với Socrates, thì cậu quá ngu.
oOo
CHÂN LÝ TƯƠNG ĐỐI
Chân lý tương đối hay tuyệt đối?
Trang Tử, hiền triết Đạo gia cổ đại,
tỉnh dậy từ một giấc mơ trong đó ông là
một con bướm, hay là, ông tự hỏi, thật ra
ông là một con bướm lúc này đang mơ
mình là Trang Tử?
Trong thế giới phương Tây hiện đại,
các triết gia bị ám ảnh bởi tính tương đối
của cái biết đối với người biết. Như
chúng ta đã biết, George Berkeley còn đi
xa đến mức phát biểu rằng "vật thể" chỉ
tồn tại tương đối với trí óc.
Thế kỷ hai mươi, một giáo sư đại học
Harvard làm thí nghiệm với ma túy tạo
ảo giác và sửng sốt phát hiện các nhận
thức của mình mang tính tương đối.
Không, chúng tôi không nói đến Timothy
Leary (
Timothy Francis Leary (1920-1996),
nhà tâm lý học có ảnh hưởng người Mỹ, ủng hộ
lợi ích của chất gây ảo giác trong trị liệu.
).
Trước đó khá lâu, đó là William James
(
William James (1842-1910), nhà tâm lý học
và triết học tiên phong người Mỹ với những
cuốn sách vể tâm lý học, chủ nghĩa thần bí, chủ
nghĩa thực dụng.
). Khi hít khí tê, James
cảm thấy mình đạt đến trạng thái hòa
đồng cùng vũ trụ, nhưng khi chất kích
thích hết tác dụng, ông không thể nhớ
được gì về những nhận thức vũ trụ của
mình. Vì vậy, đến lần hít khí tê sau, ông
buộc một cây bút vào tay và đặt một
cuốn sổ mở trước mặt. Như mong đợi,
một ý tưởng chói sáng đến với ông, và
lần nầy ông đã ghi lại được trên giấy.
Vài giờ sau, thoát khỏi trạng thái đó, ông
đọc ý tưởng triết học đột phá đã tự tay
ghi lại: "Mọi thứ bốc mùi dầu hỏa!"
Ban đầu giáo sư James thất vọng,
nhưng sau đó ông bắt đầu tư duy bằng
cảm thức triết học. Ông nhận ra rằng vấn
đề thực chất có thế là: a/ Những ý tưởng
dường như là thiên tài dưới tác dụng của
khí tê thật ra rất tầm thường vớ vẩn?
hoặc b/ "Mọi thứ bốc mùi dầu hỏa" thực
sự là ý tưởng thiên tài, nhưng nếu không
có tác dụng của khí tê, người ta không
nhận thức được?
Phân tích của James phảng phất giống
một truyện cười.
TÍNH TƯƠNG ĐỐI CỦA THỜI
GIAN
Có nhiều truyện cười minh họa tính
tương đối của ý niệm thời gian. Chẳng
hạn:
Một con ốc sên bị hai con rùa chẹn cổ
ăn cướp. Khi cảnh sát hỏi nó đã xảy ra
chuyện gì, nó nói, "Tôi không biết.
Chúng nó nhanh quá."
Và đây, lại chính con ốc sên đó:
Có tiếng gõ, nhưng khi người phụ nữ
ra mở cửa, thì chỉ thấy một con ốc sên.
Bà ta nhặt nó lên ném qua sân. Hai tuần
sau, lại có tiếng gõ của.
Người đàn bà ra mở, và lại thấy con
ốc sên đó. Con ốc sên hỏi, "Có chuyện gì
xảy ra vậy?"
Tính tương đối giữa thời gian hữu hạn
và vĩnh hằng vẫn luôn là một chủ đề
chính của tư duy triết học, và vì vậy,
đương nhiên cũng là chủ đề chính của
các tác giả hài hước:
Một người cầu nguyện chúa, "Lạy
chúa, con xin hỏi người một câu hỏi."
Chúa đáp, "Được. Con nói đi."
"Thưa Chúa, có phải một triệu năm
đối với Người chỉ là một giây thôi
không?"
"Ừ, đúng đấy."
"Vâng, vậy thì một triệu đô la đối với
Người?"
"Một triệu đô la đối với ta chỉ là một
xu."
"A, vậy thì con xin Chúa," người ấy
nói, "xin Người cho con một xu?"
"Được," Chúa nói. "Chờ một giây
nhé."
Chúng tôi sẽ không xuất bản sách của ông,
Một tự truyện: Cuộc đời con phù du, vì
sách chỉ có một trang."
TÍNH TƯƠNG ĐỐI CỦA CÁC THẾ
GIỚI QUAN
Có vô khối truyện cười minh họa tính
tương đối của các quan điểm khác nhau:
Một người Pháp bước vào quán rượu.
Một con vẹt mặc bộ tuxedo đậu trên vai
ông ta. Người pha rượu nói, "ô, trông
ngộ quá ha, ông kiếm được nó ở đâu
đấy?"
Con vẹt nói, "Ở Pháp. Ở bên đó có
hàng triệu gã như gã này."
Nhà triết học Mỹ thế kỷ
hai mươi
W.V.O.
Quine viết rằng tiếng mẹ đẻ xác
định thế giới quan của chúng ta, chính nó
tạo nên khuôn khổ mà chúng ta không thể
vượt ra ngoài để nhìn thế giới dưới ánh
sáng khác. Chúng ta không thể dịch chính
xác sang ngôn ngữ của mình một thuật
ngữ từ thứ tiếng xa lạ. Chúng ta
có
thể
thấy một người nói ngôn ngữ khác thốt
lên "gavagai" khi chỉ vào vật thể mà
chúng ta vẫn gọi là "con thỏ", nhưng
chúng ta không chắc ý
anh ta muốn nói
đến "món thịt thỏ hầm" hay là "chuỗi tiến
hóa thỏ" hoặc cái gì khác liên quan đến
thỏ.
Hai người Do Thái vào ăn tối trong
một tiệm cơm Tàu bán đồ chay. Anh hầu
bàn người Hoa nói dăm câu với họ bằng
tiếng Yiddish (
Tiếng Đức cổ của người Do
Thái ở Trung và Đông Âu.
) trong khi họ xem
thực đơn rồi sau đó nhận đặt món bằng
tiếng Yiddish luôn. Khi ra về, hai người
khách nói với người chủ tiệm Do Thái
rằng thật là ngạc nhiên thú vị vì họ có thể
nói chuyện với người hầu bàn bằng tiếng
Yiddish.
"Suỵt, khẽ thôi," người chủ tiệm nói.
"Hắn vẫn nghĩ là mình đang học tiếng
Anh đấy."
Câu chuyện này minh họa chính xác
quan niệm của Quine về các vấn đề căn
bản của dịch. Anh hầu bàn người Hoa có
thể ghép các từ Yiddish thành câu theo
cùng một cách như những thực khách Do
Thái. Tuy nhiên
toàn bộ
hiểu biết tiếng
Yiddish của anh ta mắc một khuyết điểm
trầm trọng: Anh ta nghĩ đó là tiếng Anh!
Thậm chí bản thân quan niệm về cái
gì được coi là ngoại ngữ cũng mang tính
chất tương đối với người nói. Hãy xem
câu chuyện sau đây của giới thương mại
quốc tế:
Một công ty đa quốc gia đăng quảng
cáo tuyển thư ký. Một con chó giống
Golden Retriever nộp đơn xin việc, đã
qua được phần thử đánh máy, và được
đưa vào phỏng vấn. Trưởng phòng nhân
sự hỏi, "Mày có nói được ngoại ngữ nào
không?"
Chó Golden Retriever trả lời, "Meo!"
Ở thời đại chúng ta, Michel Foucault
tập trung vào một loại tính tương đối
khác - tính tương đối của các giá trị văn
hóa đối với quyền lực xã hội. Xã hội xác
định các giá trị văn hóa của chúng ta,
đặc biệt những gì chúng ta coi là tiêu
chuẩn, và kiểm soát việc thực hiện
chúng. Ai bị coi là mắc bệnh tâm thần?
Ai xác định điều đó? Điều đó có ý nghĩa
gì đối với những người bị xác định mắc
bệnh tâm thần? Và có ý nghĩa đối với
những người kiểm soát họ? Ai là người
phải kiểm soát họ? Câu trả lời cho các
câu hỏi này thay đổi tùy thời gian, khi
thiết chế quyền lực trong xã hội thay đổi.
Có thời, việc kiểm soát nằm trong tay
giới tăng lữ, ở thời khác, trong tay các
bác sĩ. Điều này thể hiện ngụ ý của xã
hội về cách chữa trị cái gọi là bệnh tâm
thần. Điểm cốt yếu là những giá trị chúng
ta vẫn coi như vĩnh cửu và tuyệt đối thực
ra chỉ mang tính tương đối trong dòng
chảy liên tục của lịch sử, phụ thuộc vào
việc quyền lực ở trong tay ai và được họ
sử dụng như thế nào.
Pat: Milke này, tớ đang chạy xe trên
đường cao tốc và gọi cho cậu bằng điện
thoại di động mới đấy.
Mike: cẩn thận nhé, Pat. Radio vừa
thông báo có một thằng khùng đang chạy
ngược chiều trên đường cao tốc.
Pat: Một thằng khùng á? Mẹ kiếp, ở
đây đang có hàng trăm thằng kia kìa!
Xét một cách thuần túy lí trí, thì Pat
chính là thằng cha mà radio nhắc đến.
Nhưng theo tương quan từ góc nhìn của
anh ta, thì hàng trăm người khác mới
chạy sai đường. Vậy tại sao câu chuyện
trở thành hài hước, mà không chỉ là một
minh họa thuần túy về sự va chạm của
các quan điểm khác nhau? Bởi vì theo
Foucault, nhà nước đã có luật quy định
đi theo hướng nào là đúng.
Thêm một mối băn khoăn khác của
các triết gia từ thời Plato là tính tương
đối giữa các giá trị tạm thời và các giá
trị vĩnh hẳng. Và lần nữa, vấn đề được
đặt vào tầm ngắm của truyện cười:
Ngày xưa có một ông nhà giàu sắp
chết, ông ta hết sức đau lòng vì phải chia
lìa với đống tài sản đã khó nhọc cả đời
mới kiếm được, nên chỉ ao ước có thể
mang chúng theo lên Thiên đường. Bởi
vậy, ông ta liền cầu nguyện để xin được
phép mang theo một ít của cải.
Nghe thấy lời cầu xin đó, một thiên
thần hiện ra trước ông ta. "Ta rất tiếc,
nhưng ngươi không thể mang của cải
theo." ông nhà giàu khẩn nài thiên thần
hãy nói với Chúa để xem Ngài có thể
uốn cong luật lệ một chút không.
Thiên thần lại hiện ra và thông báo
rằng Chúa đã quyết định ban ngoại lệ và
cho phép ông ta mang theo một chiếc
vali. Quá vui mừng, ông ta lấy ra chiếc
vali to nhất, nhét đầy những thỏi vàng
ròng, và đặt nó bên cạnh giường.
Ít lâu sau, ông nhà giàu chết và xuất
hiện trước cổng thiên đường. Thánh
Peter nhìn chiếc vali và nói, "Dừng lại,
ngươi không được mang cái đó vào
đây!"
Ông nhà giàu bèn giải thích với Thánh
Peter rằng ông ta đã được phép và xin
Thánh hỏi lại Chúa. Lát sau, Thánh Peter
quay trở lại và nói, "Ngươi nói đúng,
ngươi được phép mang theo một túi
xách, nhưng ta phải kiểm tra bên trong
trước khi cho nó qua."
Thánh Peter mở vali để kiểm tra
những của cải trần thế mà người kia thấy
quá quý báu không nỡ bỏ lại, và thốt lên,
"Nguơi mang theo đá lát đường à?"
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net