Chinh Phụ Ngâm ( cuối kỳ 2 )

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

         Cuộc đời vốn bao la, vô tận kia như một bức tranh với ba chiều không gian trải dài đến vô cùng. Nhà thơ cũng như những con ong cần mẫn bay lượn trong khu vườn cuộc đời ấy: "Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành một mật / Một mật ngọt thành, đời vạn chuyến ong bay" (Chế Lan Viên) . Nhà thơ là những người đầu tiên và tiên phong cho sự phát triển của văn học, là người đóng vị trí cốt lõi để tạo nên một bản tình ca bất hữu.Và Đặng Trần Côn cũng thế, bằng tất cả sự cảm thông và đau xót, trước nỗi đau mất mát của con người, nhất là những người vợ lính trong chiến tranh vang lên từ tận trái tim đầy ắp lòng nhân đạo của mình, Đặng Trần Côn đã viết "Chinh phụ ngâm". Đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ" thuộc tác phẩm trên đã làm vấn vương tấm lòng người đọc khi tái hiện hoàn cảnh cô độc, nỗi nhớ thương da diết của người phụ nữ ước mơ hạnh phúc đoàn tụ, đặc biệt thể hiện rõ qua mười sáu câu đầu.

       "Chinh phụ ngâm" ra đời vào khoảng thế kỷ VIII, đầu thời Lê Hiền Tông, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân đổ ra quanh kinh thành Thăng Long. Triều đình cất quân đánh dẹp, nhiều trai tráng phải từ giã người thân ra trận. Từ đấy nhiều gia đình chịu cảnh chia lìa, kẻ ở người đi, không hẹn ngày gặp lại. Xót xa cho những phận người nhỏ bé là nạn nhân trong cái xã hội phong kiến mục ruỗng lụi tàn lúc bấy giờ, nhiều cây bút của văn học trung đại - trong đó có Đặng Trần Côn - đã chắp bút viết nên tuyệt tác. Trong khúc ngâm của Đặng Trần Côn có 476 câu thơ làm theo thể trường đoản cú. Sau được Đoàn Thị Điểm dịch ra chữ Nôm đã chuyển tác phẩm về thể thơ song thất lục bát, dùng âm điệu réo rắt, thiết tha của thơ dân tộc để góp phần thể hiện tình cảnh và tâm trạng của người vợ có chồng đi lính.

  Mở đầu đoạn trích, tác giả đã khắc họa bức chân dung tâm trạng người con gái cô đơn, ngày qua ngày tha thiết ngóng chờ tin chồng.

"Dạo hiên văng thầm gieo từng bước,

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.

Ngoài rèm thước chẳng mách tin,

Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?"

   Giữa không gian tĩnh mịch, yên ắng hình ảnh cô đơn khắc khoải của người chinh phụ lại hiện lên rõ nét nhất.Nàng đi đi lại lại, "gieo từng bước" chân của mình, những bước chân ấy nào phải bước chân "Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" của nàng Kiều khi nghe thấy tiếng gọi của tình yêu mà cảm thấy hạnh phúc ? Mà đó là nỗi niềm nặng trĩu u sầu, đong đầy thương nhớ. Nàng khát vọng về những giấc mộng đẹp, một giấc mộng về tình yêu lứa đôi, mơ ước về cuộc sống gia đình viên mãn nhưng khi càng mơ , càng ước thì nàng lại càng đau đớn, thất vọng như bước chân người cung nữ trong "Cung oán ngâm" của Nguyễn Gia Thiều:

Một mình đứng tủi, ngồi sầu

Đã than với nguyệt lại rầu với hoa

Buồn mọi nỗi, lòng đà khắc khoải

Ngán trăm chiều bước lại ngần ngơ

Còn hành động "ngồi", "rủ thác đòi phen" là hành động vô thức được lặp đi lặp lại, để làm nổi bật lên sự trông chờ của người chinh phụ qua gốc nhìn khi đứng trước chiếc cửa sổ, nàng vẫn ngày đêm mong ngóng tin tức, ấy vậy mà vẫn chẳng ai hồi âm lại nàng. Bằng sự khéo léo của mình tác giả đã sử dụng bút pháp miêu tả nội tâm qua những hành động kết hợp với nhịp thơ chậm, khiến những hành động ấy kéo dài như không gian và thời gian đều ngưng tụ. "Thước" là loài chim báo tin lành, ấy vậy mà giờ đây nó lại được đặt với từ phủ định "chẳng". Phải chăng, tin tức mà người chinh phụ nhận được chỉ toàn là tin xấu? Bởi lẽ , cuộc sống ở chiến trường có ngày nào được gọi là bình an đầu, cái mà người chiến sĩ đối mặt chỉ là ranh giới giữa sự sống và cái chết, nào có biệt được bao giờ lại có thể trở về

"Say khướt sa trường anh chớ mia

Xưa nay chinh chiến mấy ai về?"

(Trích "Lương Châu từ kỳ I - Vương Hàn)

Trong những buổi đi dạo của nàng không còn vẻ ung dung, an nhàn mà thay vào đó là sự ngán ngầm, buồn chán. Nàng vừa đi vừa gặm nhấm nỗi cô đơn, lo lắng cho sự an nguy của người thân chốn biên ải xa xôi. Nàng đợi tin lành của chim thước sẽ xoa dịu nỗi bất an, nhưng chim thước không tới. Tiếng lòng nàng lại tự hỏi "Trong rèm,dường đã có đèn biết chăng". Câu hỏi tu từ bật ra, lại gợi lên nỗi nhớ da diết, tấm lòng thổn thức của người chinh phụ khi chờ đợi ngày chồng quay về, vì "đèn" vốn chỉ là một vật vô tri vô giác, lẽ nào lại có thể an ủi cho tâm hồn đầy ngổn ngan của nàng cho được ? Người chinh phụ dắm chìm trong nỗi cô đơn, buồn sầu rồi lại nhận ra rằng khi càng hi vọng , càng mong chờ mòn mỏi thì lại hụt hẫn và tuyệt vọng càng nhiều. Và cuối cùng,"Rèm" chính là ranh giới, là giới hạn, khi rèm khép lại chính là tự tách biệt mình với bên ngoài, tự tạo cho mình một không gian bí bách đầy vắng vẻ

Tình cảnh ấy sao mà thương! Ngay cả khi bóng tối cô đơn, tịch mịch kéo xuống bao trùm lấy nàng, nàng chỉ có thể làm bạn với bóng đèn. ?

"Đèn có biết dường bằng chẳng biết,

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

Buồn rầu nói chẳng nên lời,

Hoa đèn kia với bóng người khá thương."

Trong nỗi ưu tư thầm lặng, nỗi đau da diết và thất vọng tràn trề vẫn bủa vây lấy nàng. Người chinh phụ cô đơn tâm sự với đèn, nhưng hờ hững thay "đèn có biết, dường bằng chẳng biết"điệp ngữ được sử dụng như để diễn tả lời than thở , nỗi lòng khát khao cần ai đó để có thể giải bày nhưng đáp lại nàng chỉ là sự yên lặng đến lạnh lùng của màn đêm, bóng đèn mờ nhạt không thể thấu được tâm tư nàng, trái tim nàng cũng như không thể xoa diệu được chút tư lòng amà nàng muốn được thấu hiểu, được chia sẻ phiền muộn, nhớ nhung. Vì vốn dĩ đó chỉ là vật vô trị vô giác. Cũng như bóng chiếc đèn lăng lẽ trong đêm cùng cô gái với bao nỗi thương nhớ người yêu bao trùm lấy cả tâm tư trong đoạn "Khăn thương nhớ" của ca dao dân ca.

Đèn thương nhớ ai

Mà đèn không tắt

Mắt thương nhớ ai

Mắt, ngủ không yên

Tâm tư "lo vì một nỗi không yên một bề", tâm can đau đớn vô cùng nhưng vết thương lòng chỉ ầm thầm chôn sâu vào tim, nỗi đau này chẳng thể giãi bày với ai, cũng chẳng thể tâm sự với người nào cho thấu. Trong tình cảnh cô độc vắng tẻ của nàng biết lấy ai để trút bầu tâm sự, nàng chỉ biết dồn nén những cảm xúc ấy, cảm nhận nỗi đau như thể trái tim bị cứa, mài. Thế nên lòng thiếp chỉ "chỉ riêng bi thiết mà thôi", nỗi bi ai, thống khổ này chỉ đành mình nàng gánh, mình nàng ngậm đẳng, nuốt cay vùi chôn mãi vào tâm hồn. Vẫn là dưới ánh sáng của ngọn đèn, người chinh phụ đã tự phơi bày nỗi đau, để rồi tâm tư ấy phải tự bật thành lời tự thương da diết "Hoa đèn kia với bóng người khá thương". Nàng tự thấy kiếp đời mình như kiếp hoa đèn mỏng manh dang dở có thể sẽ tàn phai bất cứ lúc nào ngay trước mắt mình. "Hoa đèn" và "bóng người" như đang phản chiếu vào nhau để diễn tả nỗi cô đơn đến héo úa canh dài, đến hao mòn cả thể chất. Dường như nỗi niềm ấy đã vo tròn rồi nén chặt trong lòng của người chinh phụ, khiến nàng không thể thốt nên lời, bởi đó là nỗi "buồn rầu" đến nặng nề, đến thương cảm. Người chinh phụ cô đơn đối diện Đến khi ngọn đèn tắt rồi, lại bỏ lại người chinh phụ trong đêm dài tĩnh mịch, u sầu

Gà eo óc gáy sương năm trống,

Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên

Khắc giờ đằng đẳng như niên,

Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa

Một đêm dài năm canh, tiếng gà gáy "eo óc" trong khoảng đêm mênh mông, hiu quạnh, khiến người phụ nữ cô đơn, lẻ loi trở nên nhỏ bé, đáng thương. Cái nghệ thuật lấy động tả tĩnh đẩy tâm trạng người chinh phụ lên một nấc thang mới, khiến nó đau đớn hơn, cô độc hơn. Cả bóng cây hòe thấp thoáng lay động trong đêm và động thái tĩnh lặng "phất phơ" càng tăng thêm tính mơ hồ, hư ảo của cành vật, của tin tức về người chồng ngoài biên ải, của những buổi đoàn tụ, sum họp gia đình trong mơ ước ấy, nàng càng mong chờ, càng cảm thấy xa xôi. Vẻ buồn bã, u sầu của cây hòe đặt trong đêm khuya thanh văng trong khúc ngâm của Đặng Trần Côn khác hẳn với cây "Hòe lục đùn đùn tán rợp giương" căng tràn nhựa sống, gợi nên sự vui tươi của buổi chiều mùa hạ trong khúc thơ "Cảnh ngày hè"của Nguyễn Trãi. Thế nên nỗi đau mất người thương không chỉ khiến tâm hồn người nhìn cảnh vật ảm đạm, hiu hắt mà còn cảm nhận thời gian dài "đẳng đẳng" như gặm nhấm những nỗi sầu bi của người chinh phụ. Sầu đong càng lắc, càng đầy, nỗi buồn của nàng ước lệ dài tựa "miền biển xa" như vượt ra ngoài giới hạn về không gian lẫn thời gian. Vậy nên, người con gái như muốn cố vùng vẫy thoát khỏi chuỗi ngày cô đơn, lẻ loi dai dằng.

Trải qua những nỗi đau vô hình, bốn câu thơ còn lại tả những hành động miễn cưỡng của người chinh phụ:

"Hương gượng đốt hồn đà mê mải

Gương gượng soi lệ lại châu chan.

Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,

Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng."

Người chinh phụ cố gắng tìm cách để thoát khỏi nỗi cô đơn bằng cách làm những hành động quen thuộc hằng ngày như đốt hướng, soi gương, gãy đàn, cả ba hành dộng dều được tác giả khéo kéo kết hợp với điệp từ "gương" để nhằm ám chỉ khi nàng càng muốn quên thì lại càng khiến cho nỗi nhớ mang trạng thái sâu đậm hơn cả, khắc sâu hơn vào trong cõi lòng. Nàng đốt hương để tìm lại niềm thanh thản trong tâm hồn nhưng lại không kìm được lòng mà để tâm trí trầm mê, lưu luyến về những tháng ngày hạnh phúc trước kia, những kí ức đẹp quá xa vời để rồi khi nhìn về thực tại, nàng lại cô đơn. Nhìn vào tấm gương soi bóng mình, nàng giật mình xót xa khi đôi mắt buồn chứa chan u sầu, đôi môi chẳng thể nở một nụ cười nhạt. Mục đích mà nàng soi gương chính là để tô thêm son phấn mong rằng mình trở nên xinh đẹp, để nhan sắc không bị lụi tàn theo nỗi nhớ ưu sầu đằng đẵng của mình, thế nhưng khi soi gương nàng lại nhớ về những ngày thàng kỉ niệm quý báo rồi chính mình lại khóc cho tuổi xuân héo tàn, cho dung mạo đang độ tươi thẳm bị nỗi đau âm ỉ tàn phá. Những giọt lệ nào có thể giúp nàng cứu vãn được tình cảnh bi đát này. Cảm thấy việc đốt hương, soi gương không thể giúp quên đi chuyện buồn, người chinh phụ tìm đến tiếng đàn. "Sắt cầm" vốn chỉ về hai loại đàn cầm và đàn sắt của người Trung Hoa mỗi khi gảy lên sẽ tạo nên một hòa âm hòa hợp – thường được ví như sự hòa hợp của tình cảm vợ chồng. Nhưng giờ đây , giữ gian phòng rộng lớn vốn có cả hai người bây giờ chỉ còn mỗi mình nàng tồn tại song song với nỗi cô đơn triền miên. "Gảy đàn" đã từng là một thói quen hằng ngày, từng là một hành dộng mà nàng yêu thích ấy vậy mà bây giời nón lại trở nên gượng gão chì vì người gảy đã không còn tha thiết gì nữa. Khi trong tình cảnh nỗi nhớ về người chồng nơi biên cương trào dâng thì làm sao người chinh phụ lại có thể thản nhiên đánh đàn như ngày trước cho được. Qủa thật, nàng đã rất cố gắng gảy đàn nhưng tay không dám gảy vì sợ dây dàn đứt, dây đàn ở đây có thể được ví như sợi tơi hồng gắng kết nhân duyên giữa hai con người, cũng như đồng nghĩa với việc khi dây đàn đứt thì mối tình của nàng vầ chồng cũng sẽ đứt đoạn từ đây. Nàng lo sợ đây là điềm báo của điều chẳng lành về cuộc hôn nhân đang bị chia cắt, về người chồng ngoài chiến trường bặt vô âm tín. Mượn hai điển tích dây đàn uyên ương, và phím đàn loan phượng vốn cũng chỉ về hành phúc , tác giả đã lột tả được tâm trạng lo lắng, phập phồng của người chinh phụ. Nếu như nàng Tô Thị ngày xưa bồng con con lên núi chờ tin chồng rồi hóa thành hòn vọng phu

"Tình yêu trên núi chon von

Thương ai hóa đá làm hòn vọng phu"

( Trích "Khúc tình yêu"- Nguyễn Đức Mậu )

Thì người chinh phụ lại ở đây ngồi buồn hàng ngày, hàng giờ, khóc cạn cả nước mắt khi không biết chồng mình sống chết ra sao. Đặng Trần Côn đã rất khéo léo trong việc miêu tả tâm lí nhân vật một cách rất tinh tế, người chinh phụ muốn thoát khỏi vòng dây của nỗi cô đơn hết lần này đến lần khác nhưng bất thành rồi lại tự khiến cho mình phải quanh quẩn trong chính vòng tuần hoàn lo âu và sợ sệt.

Với thể thơ song thất lục bát , cách dùng từ, hình ảnh ước lệ, điệp từ điệp ngữ, nghệ thuật miêu tả nội tâm, đoạn thơ đã thể hiện 1 cách tinh tế những cung bậc sắc thái tình cảm khác nhau của nỗi cô đơn buồn khổ ở nàng khao khát được sống trong hạnh phúc, tình yêu lứa đôi . Đoạn trích còn thể hiện tấm lòng yêu thương, cảm thong sâu sắc của tác giả với những khát khao hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ , cất lên tiếng kêu nhân đạo , phản đối chiến tranh phi nghĩa.

       Nhà văn Trung Quốc Lâm Ngữ Đường từng khẳng định: "Văn chương bất hủ cổ kim đều viết bằng huyết lệ".Quả là như vậy,chắc hẳn nhờ có "huyết lệ",mà tác giả mới đủ sức thổi hồn vào tác phẩm " Chinh Phụ Ngâm" một cảm xúc dâng trào về tình cảnh thương tâm của người chinh phụ nhớ chồng nơi chinh chiến. Thông qua đó, để tố cáo những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã đẩy biết bao người chồng, người con ra trận để biết bao người vợ, người mẹ phải xa lìa chồng, con của mình, mặc khác Đặng Trần Côn còn muốn thông qua văn tác phẩm để để lên tiếng và ý thức về quyền sống, quyền được hưởng cuộc sống hạnh phúc bên người mình yêu thương ngay giữa xã hội phong kiến thười. Tác phẩm đã khẳng định những giá trị nhân văn cao cả mà khúc ngâm đã đem lại, đánh dấu bước trưởng chành vượt bậc của giai đoạn văn chương thế kỷ XVIII trong quá trình phát triển của nền văn học dân tộc.

( Bài viết được thực hiện bởi Lê Thị Nhã My - HS Lớp Chuyên Vật Lý khóa 32 )


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net

#văn10