tthcmdth2c

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 1: hãy trình bày tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc? đảng ta vận dụng TTHCM về vấn đề dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay?

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

1.1. Độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm

Dân tộc việt Nam vốn có truyền thống yêu nước và đấu tranh cho độc lập tự do.

Truyền thống này tạo nên sức sống vững bền, mạnh mẽ chi phối mọi hoạt động của cộng đồng người Việt Nam.

Đối với người dân bị đô hộ thì cái quý nhất trên đời là "độc lập của Tổ quốc và tự do của nhân dân". Hồ Chí Minh từng nói: Cái mà tôi cần nhất trên đời là: đồng bào tôi được tự do, tổ quốc tôi được độc lập. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776, tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của Pháp, từ đó Người khái quát nên chân lý: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Năm 1919 Hồ Chí Minh gửi bản yêu sách 8 điểm đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam tới hội nghị hoà bình Vec-xây. Bản yêu sách chưa đề cập tới vấn đề độc lập hay tự trị, mà tập trung vào hai nội dung cơ bản:

Một là: đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông dương như đối với người châu Âu.

Hai là: đòi các quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân: tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do cư trú, tự do hội họp.

Bản yêu sách đã không được bọn đế quốc chấp nhận. Nguyễn ái Quốc kết luận: Muốn giải phóng dân tộc, không thể bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài, mà trước hết phải dựa vào sức mạnh của chính dân tộc mình

Trong chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt cũng như trong lời kêu gọi sau khi thành lập Đảng, Hồ Chí Minh xác định mục tiêu chính trị của Đảng ta là:

a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. b) làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.

Tháng 5/1941 tại hội nghị TW 8: Hồ Chí Minh chỉ rõ "trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy". Người chỉ đạo thành lập mặt trân Việt minh, ra báo Việt Nam

độc lập, và Người đúc kết ý chí đấu tranh của dân tộc Việt Nam trong câu nói bất hủ: "Dù có phải đốt cháy cả dãy trường sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập tự do".

Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945: "nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập.

Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để

giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".

Tháng 12-1946 kháng chiến toàn quốc bùng nổ Người ra lời kêu gọi vang dậy núi sông: "Không! chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ".

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước Hồ Chí Minh đưa ra chân lý: "Không có gì quý hơn độc lập tự do". Đây là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng, đồng thời cũng là nguồn động viên với các dân tộc bị áp bức trên thế giới

1.2. Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.

Trong lịch sử, vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết trên lập trường của một giai cấp nhất định. Theo học thuyết Mác-Lênin, chỉ đứng vững trên lập trường của giai cấp vô sản thì mới giải quyết đúng đắn và thành công vấn đề dân tộc. C.Mác khẳng định: "giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo nghĩa như giai cấp tư sản hiểu"

Thời Mác-Ăngghen xuất phát từ yêu cầu và mục tiêu của cách mạng vô sản ở châu Âu, các ông tập trung nhiều hơn về vấn đề giai cấp, các ông không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc; nhất là các ông chưa có điều kiện bàn nhiều về vấn đề dân tộc thuộc địa. Đúng như Lênin nhận xét, đối với hai ông, vấn đề dân tộc là thứ yếu so với vấn đề giai cấp vô sản. Đến thời đại của Lênin, chủ nghĩa Đế quốc đã thành hệ thống thế giới. Thực tiễn đó đã tạo điều kiện cho Người xây dựng học thuyết về cách mạng thuộc địa. Theo Lênin, cuộc đấutranh của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ không thể giành được thắng lợi nếu nó không biết liên minh với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Bởi vậy khẩu hiệu của Mác được phát triển thành "vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới đoàn kết lại". Hồ Chí Minh đánh giá cao tư tưởng của Lênin, Người cho

rằng: "Lênin đã đặt tiền đề cho một thời đại mới, thật sự cách mạng trong các nước thuộc địa"

a)Quan điểm của Hồ Chí Minh:

- Hồ Chí Minh đã nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Tuy nhiên, khi vận dụng phải biết sáng tạo cho phù hợp với nhiệm vụ cụ thể của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, phù hợp với đặc điểm lịch sử cụ thể của các nước phương Đông.

- Các dân tộc phải biết dựa vào sức của chính mình, đồng thời phải biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân thế giới để trước hết giành độc lập dân tộc, từ thắng lợi này tiến lên làm cách mạng XHCN, góp phần vào tiến trình cách mạng thế giới

- Đối với các vấn đề ở thuộc địa, vấn đề mâu thuẫn dân tộc nổi lên hàng đầu, gay gắt, quyết liệt. Vì vậy, trước hết phải đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết. Hồ Chí Minh nêu ra luận điểm: Các dân tộc thuộc địa trước hết phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc, có độc lập dân tộc rồi mới có địa bàn để tiến lên làm cách mạng XHCN và đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng Vô sản thế giới.

- Ở các nước thuộc địa, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước. Đây là chủ nghĩa dân tộc chân chính. Với dân tộc Việt Nam đó chính là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử - là một động lực tinh thần vô giá trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc, nó khác hẳn chủ nghĩa dân tộc xô vanh, vị kỷ của giai cấp tư sản.

Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh ở đây là sự phân tích hoàn cảnh của các nước Đông Dương: kinh tế còn lạc hậu, sự phân hoá giai cấp chưa triệt để, do đó, cuộc đấu tranh giai cấp ở đây không diễn ra quyết liệt như ở Phương Tây. Trong khi đó tinh thần dân tộc chân chính ở các nước này diễn ra rất mạnh mẽ. Vì vậy, những người cộng sản phải biết nắm lấy ngọn cờ dân tộc để giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp vô sản.

b. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự vận dụng rõ rệt nhất, tập trung nhất của Hồ Chí Minh về sự kết hợp giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng Việt Nam. Sự gắn bó thể hiện ngay khi Người trở thành người cộng sản và cả quá trình phát triển tư duy lý luận của Người.

Theo Hồ Chí Minh "chỉ có giải phóng giai cấp mới có thể giải phóng dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của CNCS & của cách mạng trên thế giới"

Bởi vì chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động

trên thế giới khỏi ách nô lệ. Xoá bỏ áp bức dân tộc, mà không xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp

bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng, do đó, phát triển đất nước theo

con đường của CNXH là bảo đảm vững chắc cho nền độc lập của dân tộc

Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để tiến lên CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc

Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và CNXH vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.

c. Độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc.

Hồ Chí Minh đã khẳng định: quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm của các dân tộc: "dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Đây chính là sự gắn bó giữa tinh thần dân tộc tự quyết với nghĩa vụ quốc tế; giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng v.v.

Vì vậy năm 1914, khi ở Anh, Người đã đem toàn bộ số tiền dành dụm được từ đồng lương ít ỏi để ủng hộ quỹ kháng chiến của người Anh và nói với bạn mình rằng: chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy.

Người tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc. Nhưng Người chủ trương ủng hộ cách

mạng Trung Quốc,Lào, Cămpuchia ... vì theo Hồ Chí Minh "giúp bạn là tự giúp mình"

Kết luận:

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tính khoa học đúng đắn, vừa có tính chất cách mạng sâu sắc thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc. Điều đó hoàn toàn phù hợp với nhân định của Ăngghen:" những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào công nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính".

2* VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG

CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY.

Một là: Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thàn dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ đất nước.

- Nội lực hiểu một cách toàn diện bao gồm: con người, trí tuệ, truyền thống dân tộc, truyền thống cách mạng, đất đai, tài nguyên, vốn liếng... nhưng tựu trung lại, yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất vẫn là nguồn lực con người với tất cả sức mạnh thể chất và tinh thần của nó.

- Con người Việt Nam vốn có truyền thống gắn kết cộng đồng, có ý chí kiên cường bất khuất, không chịu làm nô lệ, không cam phận nghèo hèn... Điều này được khẳng định trong lịch sử dân tộc mấy nghìn năm qua và trực tiếp trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong công cuộc đổi mới hiện nay cần tiếp tục phát huy tryền thống đó để trở thành nội lực đưa đất nước phát triển lên.

Hai là: Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm giai cấp.

- Khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, và vai trò lãnh đạo của Đẩng cộng sản Việt Nam - Đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam hơn 70 năm qua.

- Đoàn kết rộng rãi các giai tầng nhưng lấy liên minh công-nông-trí thức là nền tảng tư tưởng.

- Trong đấu tranh giành và giữ chính quyền, cần thiết phải biết sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù.

- Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

Trên đây là những quan điểm có tính nguyên tắc, bất biến mà chúng ta cần vận dụng quán triệt trong bất cứ hoàn cảnh nào

Trong tình hình thế giới còn nhiều biến động như hiện nay, khi xã hội còn đấu tranh giai cấp, nếu bỏ rơi quan điểm giai cấp, nhấn mạnh vấn đề nhân loại thì sẽ làm suy yếu phong trào cách mạng thế giới, dẫn đến sự tan rã của chế độ XHCN. Song nếu chỉ nhấn mạnh tới vấn đề dân tộc thì dẫn đến chủ nghĩa xô vanh, tới đấu tranh sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ, làm mất ổn định chính trị thế giới

Ba là: Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân tộc anh em và trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.

- Đại đoàn kết các dân tộc anh em trên lãnh thổ Vịêt nam là một nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

- Trong thời kỳ đổi mới Đảng ta tiếp tục giương cao ngọn cờ đoàn kết, cụ thể:

Tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh công-nông-trí thức làm nền tảng, lấy mục tiêu độc lập, thống nhất tổ quốc, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh... làm điểm tương đồng.

Trong xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, phải chăm lo giải quyết tốt hơn nữa mối quan hệ giữa các dân tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Đây là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp dung nước và giữ nước. Đại hội đảng IX đã nêu: "vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng" và đề ra mục tiêu cho miền núi là:

• Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, phát triển sản xuất hàng hoá, xoá đói, giảm nghèo;

• Giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc;

• Đặc biệt quan tâm tới vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến, tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số.

• Chống kỳ thị chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, khắc phục tư tưởng dân tộc tự ti, mặc cảm dân tộc.

Kết luận:

Tư tưởng dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc là một nội dung lớn, nổi bật trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Với tư tưởng này, Hồ Chí Minh chẳng những đã đưa nước VN đến độc lập tự do, thống nhất trọn vẹn, mà còn góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới. Với những đóng góp đó Hồ Chí Minh đã được nhân loại tôn vinh là anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hoá thế giới.

câu 2 : trình bày những quan điểm cơ bản của HCM về đại đoàn kết dân tộc? đảng ta đã vận dụng tư tưởng đại đàon kết của HCM trong giai đoạn phát triền đất nc ta hiện nay?

1. Những Quan điểm cơ bản trong tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.

1.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, đại đoàn kết không phải là một thủ đoạn chính trị nhất thời mang tính chất sách lược, mà đại đoàn kết là vấn đề sống còn, có ý nghĩa chiến lượclâu dài, là vấn đề có tầm vóc rất cao, là vấn đề cốt lõi để phân biệt tư tưởng đại đoàn kết của Bác với tư tưởng tập hợp lực lượng của những người đứng đầu ở các nước khác. Bởi vì, Hồ Chí Minh xác định đoàn kết là lẽ sinh tồn của dân tộc. "Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn".

Từ khi Đảng ta ra đời, đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh thật sự là một bộ phận hữu cơ trong đường lối cách mạng của Đảng. Chỉ có đoàn kết thì mới tạo ra sức mạnh đưa cách mạng tới thành công. Như vậy "đoàn kết là điểm mẹ", "Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt".

1.2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.

Hồ Chí Minh nói với dân tộc: "Mục đích của Đảng lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc". Bởi vậy tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chính sách của Đảng và chính phủ.

Xét về bản chất thì đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của bản thân quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, là sự nghiệp cách mạng do quần chúng tiến hành. Cách mạng là cuộc chiến đấu khổng lồ, không tập hợp được lực lượng quần chúng, sẽ không thắng lợi. Kẻ thù mới là chủ nghĩa thực dân tìm mọi cách "chia để trị". Chính vì vậy, Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết muôn người như một, để chuyển những đòi hỏi khách quan của, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch của quần chúng thực hiện mục tiêu cách mạng của quần chúng.

Như vậy đại đoàn kết dân tộc vừa là mục tiêu, mục đích nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc.

1.3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.

"Dân" theo quan niệm của Hồ Chí Minh là đồng bào, là anh em một nhà. "Dân" không phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, sang, hèn. "Dân" là toàn dân, toàn dân tộc Việt Nam, bao gồm dân tộc đa số, thiểu số cùng sống trên một dải đất Việt Nam., cũng như những người Việt Nam sống ở nước ngoài. Như vậy, "Dân" có biên độ rất rộng, vừa được hiểu là mỗi cá nhân "mỗi con rồng cháu tiên", vừa là toàn thể đồng bào "mọi công dân nước Việt". Như vậy, Hồ Chí Minh đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam bao gồm mọi giai cấp, dân tộc, tôn giáo.

- Muốn đại đoàn kết toàn dân phải khai thác được những yếu tố tương đồng, hạn chế những điểm khác biệt trong các mối quan hệ phức tạp như: Cá nhân - tập thể; gia đình - xãhội; bộ phận - toàn cục; giai cấp - dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, đã là người Việt Nam (trừ Việt gian bán nước) đều có những điểm chung: Tổ tiên chung; lòng yêu nước; kẻ thù chung là chủ nghãi thực dân; nguyện vọng chung là độc lập, hoà bình, thống nhất, tự do, hạnh phúc.

Từ những hiểu biết đó để khi giải quyết mối quan hệ giai cấp - dân tộc, phải dựa trên nhận thức khoa học và cách mạng. Nghĩa là giai cấp - dân tộc là một thể thống nhất, biện chứng, là một cấu trúc hữu cơ không thể cắt rời. Giai cấp nằm trong dân tộc và phải gắn với dân tộc, "trở thành dân tộc" như cách nói của Mác.

- Nắm vững quan điểm giai cấp, quan điểm quần chúng, Hồ Chí Minh đã chỉ ra giai cấp công, nông là lực lượng đông đảo nhất, bị áp bức nặng nề nhất, có tinh thần cách mạng triệt để nhất, nên trong khối đoàn kết toàn dân (công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác), phảI lấy liên minh công-nông-lao động trí óc làm nền tảng. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được có thể mở rộng, mà không một thế lực nào có thể làm suy yếu khối đoàn kết toàn dân.

1.4. Đại đoàn kết phải có tổ chức, có lãnh đạo.

Đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa chiến lược, có tổ chức, có lãnh đạo, không phải là sự tập hợp ngẫu nhiên, tự phát, cảm tính, mà được xây dựng trên một cơ sở lý luận khoa học nhằm hoàn thành mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Đại đoàn kết phải trở thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất có tổ chức và tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất để vừa đông về số lượng, vừa nâng cao về chất lượng (điều mà các phong trào yêu nước trước đây không làm được).

- Nền tảng của mặt trận là liên minh công - nông- lao động trí óc, để từ đó mặt trận sẽquy tụ được cả dân tộc, tập hợp được toàn dân, đoàn kết thành một khối vững chắc.

- Lấy lợi ích tối cao của dân tộc gắn với lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động làm cơ sở. Đó là tổ quốc độc lập, thống nhất, nhân dân tự do, hạnh phúc, dân giàu, nước mạnh.

Đồng thời phải quan tâm tới lợi ích chính đáng của cá nhân, bộ phận, giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng.

- Hoạt động của mặt trận theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ. Đại đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, thật sự, chân thành, thiết thực, rộng rãi, vững chắc cùng nhau xây dung đời sống hoà thuận ấm no, xây dung Tổ quốc.

- Đoàn kết gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết. Nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, chống cô độc, hẹp hòi và đoàn kết một chiều. - Mặt trận dân tộc thống nhất phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây vừa là một nguyên tắc của mặt trận, vừa là một quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết.

- Đảng Cộng sản là thành viên của mặt trận, nhưng lại là thành viên lãnh đạo mặt trận.Vì vậy, Đảng là linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân. Đảng phải xác định mình là Đảngcủa giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam, để mỗi một người Việt Nam yêu nước luôn tự hào về Đảng của mình.

- Đảng phải "vừa là đạo đức, vừa là văn minh"; phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự,lương tâm của dân tộc.

- Đảng phải tỏ ra "là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất, phải có chính sách đúng đắn và có năng lực lãnh đạo" thì mới giành được địa vị lãnh đạo mặt trận.

- Đảng lãnh đạo mặt trận bằng việc xác

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net