Chương III: Con người đố kỵ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ông Đetmaliông nhìn Đông Luy, nhìn lên trần, chưa hiểu thế nào.

Perenna nói:

- Thưa, chẳng phải là ảo thuật gì đâu ! Chẳng có ai từ trên cao ném lá thư xuống cả, và ở trên trần cũng chẳng có lỗ thủng nào. Tuy nhiên việc giải thích rất đơn giản.

- Rất đơn giản ! Ông Đetmaliông kêu lên.

- Vâng, thưa ông quận trưởng. Sự việc có vẻ tỏ ra rất kỳ quặc, vô cùng phức tạp và cứ như chuyện đùa cợt. Nhưng tôi xin khẳng định là nó rất đơn giản... và cũng... vô cùng bi thảm. Anh Madơru ! Yêu cầu anh mở hết các màn che và bật các đèn lên cho thật sáng.

Trong khi Madơru làm theo lời Đông Luy và trong khi ông Đelmaliông đọc nhanh bức thư thứ tư mà nội dung không có gì đặc biệt, chỉ là xác nhận nội dung các bức thư trước, thì Đông Luy lấy cái thang gấp mà những công nhân để ở góc gian phòng. Anh dựng thang ra giữa gian và trèo lên ngồi vắt chân hai bên đỉnh thang, anh vừa ngang tầm với cái thiết bị điện.

Đó là một cái đèn trần gồm một cái đai lớn bằng đồng đỏ mạ vàng, phía dưới treo chằng chịt những thỏi pha lê. Bên trong có ba bóng đèn, đặt ở ba góc một tam giác bằng đồng đỏ, tam giác che khuất các dây điện. Anh gỡ các đây đỏ, cắt đi và bắt đầu vặn ốc vít, mở thiết bị... Để làm việc này được nhanh, anh đã phải bảo người đưa anh cái búa để đập vỡ phần vữa thạch cao xung quanh những chân giữ cái bao đèn.

Anh bảo Madơru: Anh vui lòng giúp tôi một tay.

Madơru trèo lên thang. Cả hai người mới đủ sức đỡ được cái bao chụp đèn dựa vào thanh dọc thang, đưa xuống, đặt lên mặt bàn, vì nó khá nặng, nặng hơn người ta tưởng nhiều.

Thực vậy, mới qua kiểm tra sơ bộ đã thấy ngay bên trên nó là một kiểu hộp bằng kim loại có hình lập phương mỗi bề 20 cm. Hộp này đút vào trong trần, giữa những chân giữ bằng sắt, buộc Đông Luy phải phá phần vữa thạch cao trát kín.

Ông Đetmaliông kêu lên: Thế là cái gì nhỉ ?

Perenna trả lời:

- Thưa ông quận trưởng, xin ông hãy tự mở nắp hộp ra.

Ông Đetmaliông nhấc nắp hộp ra: bên trong có những bộ bánh xe, những lò xo, toàn bộ là một bộ máy phức tạp, tỉ mỉ, không khác gì một bộ máy đồng hồ.

Đông Luy nói: "Xin ông cho phép tôi"... và anh nhấc bộ máy ra. Bên dưới là một bộ máy khác, chỉ liên hệ với bộ máy trên bằng bộ hai bánh răng, và bộ máy đó làm ta liên tưởng đến một cơ cấu tự động nhả các băng in.

Ở tận cùng đáy hộp có một khe hình bán nguyệt, gia công trong phần kim loại, cho tới chỗ đáy hộp ăn sát với trần nhà. Ở mép khe đó có một lá thư đã được chuẩn bị sẵn sàng.

Đông Luy nói:

- Đây là lá thư cuối cùng, lá thư thứ năm - lá thư tiếp tục những việc tố giác. Xin ông quận trưởng lưu ý đến điểm này: bộ đèn lúc ban đầu còn có một bóng đèn thứ tư lắp ở giữa. Cái bóng đó đã được bỏ đi để lấy chỗ cho những lá thư đi qua, sau khi đã có sự cải biến. Vậy là tất cả các bức thư đều được để tận dưới đáy. Một bộ máy tinh xảo, được điều khiển bằng chuyển động của một bộ máy đồng hồ, lần lượt ngoạm từng lá thư vào đúng giờ đã quy định, đẩy ra tới mép rãnh được ngụy trang giữa các bóng đèn và các thỏi tua pha lê của bộ đèn. Và thế là lá thư rơi xuống.

Mọi người im lặng xung quanh Đông Luy. Dường như họ đã bắt đầu hiểu ra. Tất nhiên bộ máy tinh vi tuyệt xảo rồi, nhưng họ vẫn muốn thấy tận mắt sự hoạt động của nó.

Đông Luy đoán rõ ý đó, và nói tiếp:

- Xin các vị hãy kiên tâm một chút. Tôi đã hứa sẽ trình bày các vị thấy rõ một vấn đề làm ta khủng khiếp quá sức tưởng tượng. Các vị sẽ được thỏa mãn tính hiếu kỳ.


Ông quận trưởng nói:

- Được rồi. Tôi chấp nhận chỗ này là nơi xuất phát các lá thư. Nhưng còn nhiều điểm tối mò mò, có một sự việc mà tôi không sao hiểu nổi. Những tên tội phạm làm thế nào để bố trí được bộ đèn này như vậy ? Trong ngôi nhà thường xuyên có cảnh binh - canh gác suốt ngày đêm, chúng dùng cách nào để thực hiện được một công việc như vậy mà không có ai nghe thấy, trông thấy ?

- Dạ, câu trả lời không có gì khó, chúng đã làm việc đó trước khi ngôi nhà có sựcanh gác của cảnh binh.

- Tức là trước khi xảy ra án mạng ?

- Tức là trước khi xảy ra án mạng.

- Có cái gì chứng minh như vậy ?

- Chính ông đã cho là như vậy, thưa ông quận trưởng ! Vì ông đã thừa nhận chúng không có cách nào khác để làm được như thế.

Ông Đetmaliông có vẻ cáu kỉnh, kêu lên:

- Thôi xin ông hãy nói toạc ra đi ! Cứ úp mở mãi ! Nếu ông đã phát hiện ra điều gì quan trọng thì sao không nói ngay đi ?

- Thưa ông quận trưởng. Tôi thấy rằng ông nên đi đến sự thật bằng chính đường mà tôi đã đi. Khi ta đã biết cách bố trí bí mật các lá thư, thì ta đã gần tới sự thật nhiều hơn ta tưởng, và ông đã có thể nói đích danh tên tội phạm nếu việc làm khốn nạn của nó đã không quỷ quyệt làm lạc hướng mọi sự nghi ngờ.

Ông Đetmaliông chăm chú nhìn Đông Luy. Ông cảm thấy rõ tầm quan trọng trong mỗi lời nói của anh, và ông thấy thực sự lo lắng, ông hỏi:

- Vậy thì theo ông, những bức thư buộc tội bà Fauvin và Gattông-Xôvơrăng để ở nơi kia, chỉ nhằm mục đích làm hại hai người đó ư ?

- Thưa ông, đúng như vậy.

- Và vì những bức thư đã đặt ở đó trước khi xảy ra án mạng, cho nên mưu đó đã được tính toán bố trí trước khi xảy ra án mạng ?

- Đúng thế, thưa ông. Đúng, trước khi xảy ra vụ án mạng. Khi ta đã chấp nhận hai người kia là vô tội, thì nó dẫn chúng ta đến kết luận rằng tất cả những gì đã xảy rã đều đã cố ý xảy ra để nhằm buộc tội hai người vô tội. Bà Fauvin ra khỏi nhà để nhằm xảy ra án mạng: do mưu đồ đã bố trí. Bà ta không thể nói được việc sử dụng thời gian trong khi xảy ra án mạng - do mưu đồ đã bố trí. Cuộc đi dạo không giải thích nổi của bà ta về phía La-Muy-et, và cuộc dạo chơi của người anh họ bà ta xung quanh ngôi nhà: do mưu đồ đã bố trí. Vết răng in lên quả táo, chính vết răng của bà Fauvin: do mưu đồ đã bố trí. Và tất cả những nghi ngờ đã gieo rắc, những nghi ngờ nguy hại nhất, xin thưa: đều do mưu đồ đã bố trí, đã chuẩn bị, đã định lượng, đã dán nhãn, đã đánh số. Mỗi sự kiện chiếm lĩnh vị trí vào đúng giờ đã quy định. Không một sự kiện nào xảy ra do ngẫu nhiên. Đây là một sảnphẩm hoàn chỉnh tỉ mỉ, chính xác, do bàn tay người thợ tuyệt xảo làm nên, rất vững vàng đến mức những sự việc bên ngoài không thể làm sai lệch nổi... Và cả một bộ máy đã hoạt động cho đến hôm nay, chính xác, không ngừng, không khác gì sự chuyển động của cái máy đồng hồ đặt trong hộp này. Nó là biểu tượng hoàn hảo nhất của vụ việc, đồng thời là sự giải thích đúng đắn nhất, vì trước khi xảy ra án mạng, các bức thư tố cáo kẻ sát nhân đã được bỏ vào "hòm thư bưu điện", đợi đúng giờ, đúng ngày là được chuyển đi.

Ông Đetmaliông suy nghĩ khá lâu rồi nhận định:

- Trong những bức thư do ông Fauvin viết, chính ông ấy buộc tội người vợ.

- Đúng thế.

- Vậy thì ta phải giả định hoặc là có lý do chính đáng để ông ấy buộc tội, hoặc đó là những thư giả mạo...

- Không phải thư giả mạo. Các chuyên viên đã xác nhận chữ viết của ông Fauvin.

- Thế thì... Thế thì... ?

Đông Luy chưa trả lời tiếp, nhưng ông Đetmaliông đã cảm thấy lần ra manh mối của sự thật.

Mọi người im phăng phắc và cũng cảm thấy như ông. Ông nói khẽ:

- Tôi chưa hiểu...

- Dạ, ông hiểu chứ ạ ! Hẳn ông hiểu là nếu cách «gửi» những bức thư nằm trong mưu đồ chống lại bà Fauvin, chống lại Gattông-Xôvơrăng, thì hẳn là nội dung những bức thư đã được chuẩn bị sao cho có thể làm hại được hai người kia.

- Sao, sao ? ông nói cái gì ?

- Tôi nói điều tôi đã nói. Khi họ là vô tội, thì tất sự việc nào buộc tội họ cũng đều nằm trong mưu đồ toan tính cả.

Lại im lặng lúc lâu. Ông quận trưởng không giấu sự bối rối. Ông nhìn chăm chăm Đông Luy và chậm rãi, nói:

- Dù kẻ sát nhân là ai, thì tôi cũng thấy cái tác phẩm hằn thù đố kỵ này thực là khủng khiếp.

Perenna nói, dần dần hăng lên:

- Thưa ông quận trưởng, đây là một tác phẩm mà nếu ông chưa nghe những lời tâm sự, tâm tình của Gattông-Xôvơrăng, thì ông cũng khó tin được, và cũng không thấy hết được mức độ tàn bạo của nó. Tôi, khi nghe Xôvơrăng kể chuyện, tôi đã hiểu ra toàn bộ tác phẩm, và từ khi đó, mọi suy luận của tôi đều dựa trên cơ sở mối hằn thù khủng khiếp này. Ai là người có thể hằn thù độc địa đến như vậy ? Mari-An và Xôvơrăng đã là đối tượng của một lòng căm ghét tới mức độ nào ? Ai là người có tài trí đến mức độ quấn quanh hai người vô tội kia những xiềng xích chắc chắn đến như thế ?

Ngoài ra còn một ý nghĩ nữa chỉ đạo sự suy nghĩ của tôi, ý nghĩ đã có từ trước nữa, ý nghĩ đã dằn vặt tôi nhiều và tôi đã có ngỏ cho Madơru biết. Ý nghĩ đó là tính chất hết sức toán học của việc xuất hiện những lá thư. Tôi tự nhủ những lá thư nghiêm trọng như thế và xuất hiện vào những định kỳ chính xác đến thế, thì hẳn những định kỳ đó phải có một tầm quan trọng tiên quyết. Vậy vì lý do gì ? Nếu do bàn tay con người đưa thư đến thì thể nào cũng có trục trặc về thời gian một cách tự phát, hoặc sớm hơn một chút, hoặc muộn hơn một chút, nhất là từ khi việc xuất hiện đã làm cho các nhà chức trách phải chú ý, phải theo dõi. Thế nhưng, bất chấp mọi trở ngại, những lá thư vẫn tiếp tục « gửi đến », cứ như là không thể không gửi đến. Do đó dần dần tôi nghĩ ra: sự xuất hiện được thực hiện một cách máy tróc, bằng một phương pháp không ai trông thấy, đã được và chỉ cần chỉnh định một lần là sẽ hoạt động một cách không cưỡng nổi, như một định luật vật lý. Ở đây không có trí tuệ, lý trí và lương tâm, mà chỉ là tự động thú vật theo một sự cần thiết cụ thể.

Hai ý nghĩ đó "đấu nhau » trong đầu óc tôi. Một là mối hận thù ghê gớm đang đeo đuổi những người vô tội, hai là cái khả năng cơ giới đã phục vụ kẻ đố kỵ thù hằn. Hai ý nghĩ đấu nhau làm bật một tia sáng trong đầu tôi: nó làm tôi nhớ lại rằng Hippôlit - Fauvin là một kỹ sư.

Mọi người theo dõi từng lời của Đông Luy, thấy tấm màn bi kịch dần dần được vén lên, chẳng những không bớt lo ngại, mà lại cảm thấy đáng kinh sợ hơn.

Ông Đetmaliông nhận xét:

- Những lá thư xuất hiện tuy đúng ngày, nhưng giờ thì đôi khi có xê xích.

- Nghĩa là việc xê xích về giờ tùy thuộc vào việc chúng ta có hay không tổ chức theo dõi trong bóng tối. Chính điểm này giúp tôi phát biện ra cái bí mật. Những bức thư chỉ được xuất hiện trong bóng tối, vì sự cần thiết phải như vậy và như hôm nay chúng ta đã chứng kiến, chính là do có một cơ cấu làm cho thư không chuyển đi được khi có đèn điện sáng, và chắc chắn cơ cấu này được điều khiển bằng một cái công tắc sẵn có trong phòng này. Không thể giải thích bằng cách nào khác. Đây là một thiết bị phân phối tự động, nhờ ở sự chuyển động của bộ máy đồng hồ, chỉ giải phóng những lá thư buộc tội vào từ giờ nào đến giờ nào của đêm nào đã được ấn định trước, nhưng chỉ giải phóng lá thư vào những phút mà bộ đèn trần không thắp sáng. Thưa các vị, thiết bị đó: nó đây, ngay trước mắt các vị, mà tôi đã trình bày lúc nãy. Chắc ai cũng phải thán phục sự kỳ diệu của bộ máy và không thể không chấp nhận những xét đoán của tôi. Vì bộ máy đặt ngay trên trần gian phòng của ông Fauvin, mà lại đựng những lá thư do chính ông Fauvin viết, nên tôi rất có quyền nói là bộ máy đó do chính tay Hippôlit-Fauvin, kỹ sư điện chế tạo.

Lại một lần nữa tên Hippôlit-Fauvin được nhắc đến, và mỗi lần nó có một nghĩa chính xác hơn. Trước tiên là «ông Fauvin», rồi đến ông «Fauvin kỹ sư» và rồi đến «Fauvin kỹ sư điện». Và hình ảnh con người hằn thù đố kỵ, như lời Đông Luy nói, hiện ra cứ rõ và đúng dần, làm cho mọi người, tuy đã từng biết nhiều cách làm lạc hướng điều tra tội phạm, vẫn phải rùng minh, sợ hãi. Mọi người như đang vật lộn với sự thật, với một kẻ thù vô hình đang rình bóp cổ và quật ngã mình. Ông quận trưởng, đại diện cho những cảm giác đó, nói như lạc giọng:

- Như vậy là ông Fauvin đã viết những bức thư ấy nhằm mục đích làm hại vợ và người yêu vợ ông ấy ?

- Vâng, đúng thế.

- Như thế nghĩa là... ông ta bị cái chết đe đọa, và nếu cái chết xảy đến thực, thì vợ ông và người bạn của vợ ông phải bị kết tội giết người ?

- Vâng.

- Và để báo thù, để nguôi cơn thù hằn, đố kỵ, ông ta muốn rằng tất cả mọi sự việc sẽ xảy ra đều có hiệu lực chắc chắn tố cáo hai người kia là thủ phạm giết người, sau khi ông ta chết ?

- Hoàn toàn đúng như vậy.

- Như thế có nghĩa là... ông Fauvin... tôi nên nói thế nào nhỉ ?... Ông Fauvin, trong «tác phẩm» đáng, nguyền rủa của ông ta, chính ông ta lại đóng vai tòng phạm của kẻ giết ông ta ? Ông ta run sợ trước cái chết... Ông ta lồng lộn... Nhưng ông ta có lý trí để cái chết của ông ta trả thù được cho ông ta ?...Có phải đúng như thế không ?

- Dạ cũng gần đúng như thế, thưa ông quận trưởng. Ông đã được dẫn đi theo đúng con đường tôi đã đi. Và cũng như tôi, ông đã ngập ngừng trước sự thật cuối cùng, sự thật đã gây cho tấn bi kịch một tính chất buồn thảm và ngoài tưởng tượng của loài người.

Ông quận trưởng đấm tay xuống bàn, đột nhiên phản ứng:

- Vô lý ! Giả thiết mơ hồ ! Ông Fauvin bị cái chết đe dọa. Rồi bố trí làm hại vợ với một sự kiên nhẫn giảo quyệt đến thế ! Thôi đi ông ! Một con người đã đến văn phòng tôi, mà ông cũng đã thấy đấy, một con người chỉ nghĩ đến mỗi một chuyện: sợ chết, vì cái chết khiếp bãi quá ! Một con ngưởi đang ở trạng thái như vậy mà lại đi chính đặt các máy móc, đi giăng bẫy hại người... mà nhất là cái bẫy đó chỉ có hiệu lực nếu ông ta bị giết chết ! Ông hãy hình dung ông Fauvin bố trí bộ máy đồng hồ, đặt các bức thư mà ông ta đã cẩn thật viết từ ba tháng trước để gửi cho một người bạn rồi bố trí các sự kiện, các tình huống để cho vợ bị coi là thủ phạm, và nói "Nếu ta có chết thì ta cũng an tâm, vì Mari-An sẽ bị bắt». Không ! ông ạ ! Không ai có thể có những cách bố trí đề phòng buồn thảm đến thế. Trừ phi người ấy biết chắc chắn là sẽ bị ám sát ! Chẳng lẽ ông ta chịu nhận như vậy ! Chẳng lẽ ông ta giơ cổ ra cho người ta cắt ! Cuối cùng thì...

Ông bỗng ngừng bặt hình như ông ngạc nhiên về chính lời ông nói. Và tất cả mọi người hình như cũng kinh ngạc lạ lùng như ông. Và hình như từ những lời nói đó họ đã vô tình, sợ phải rút ra những kết luận.

Ông Đetmaliông khẽ nói:

- Ồ l Không có lẽ ông cho rằng có sự nhất quán...

- Tôi không «cho rằng» gì cả. Đó là con đường đi tới, lô gích và tự nhiên, đã dẫn những suy nghĩ của ông đến điểm hiện nay ông đang luận đoán.

- Tôi biết như vậy, nhưng tôi nêu lên cái mơ hồ trong giả thiết của ông. Nếu cho rằng bà Fauvin vô tội là đúng, thế thì ta phải giả định rằng ông Fauvin đã bày ra cái chuyện vô cùng vô lý, là tự mình tham gia vào việc giết mình ư ? Thật là buồn cười !

Và ông cười nhưng một cái cười gượng gạo, không thoải mái.

Ông nói tiếp: Và chắc ông cũng không thể không công nhận như vậy.

- Thì tôi có nói là không đâu ?

- Thế thì...

- Thế thì, thưa ông quận trưởng ! Đúng là ông Fauvin đã tự mình tham gia vào việc giết chính mình.

Đông Luy nói câu đó với giọng hết sức bình tĩnh, và với dáng điệu có tính chất khẳng định đến nỗi không ai hé ra một lời phản ứng.

Sự trình bày những suy luận và những giả định của Đông Luy đã chinh phục tất cả các thính giả, và dẫn mọi người đến một đường cụt mà muốn ra khỏi thì không thể không phải vượt qua những trở ngại không dễ gì vượt nổi. Sự tham gia của ông Fauvin vào vụ này không còn gì phải nghi ngờ nữa. Nhưng tham gia để nhằm mục đích gì ? Nhiệm vụ của ông ta như thế nào trong tấn bi kịch vừa giết mình vừa hại người này ? Nhiệm vụ dẫn đến phải hy sinh tính mệnh bản thân ấy là hoàn toàn do tự nguyện hay bị một áp lực nào ? Và cuối cùng, ai là kẻ đã cùng ông ta đóng vai tòng phạm hay thủ phạm ?

Những câu hỏi đó đang chen chúc lộn xộn trong trí óc ông Đetmaliông và mọi người. Ai cũng mong phải được giải đáp. Đông Luy thì chắc chắn là lời giải đáp sắp đưa ra sẽ được mọi người sẵn sàng chấp nhận từ trước. Cho nên anh chỉ việc thuật lại toàn bộ những gì đã diễn biến, mà không cần cải chính, thêm bớt gì. Anh bắt đâu:

- Ba tháng trước khi xảy ra vụ án mạng, ông Fauvin viết một loạt thư cho một người bạn, ông Lăng-ghéc-nô, là người đã chết từ mấy năm trước - chắc Madơru đã báo cáo với ông quận trưởng về điều này- mà ông Fauvin cũng thừa biết là đã chết. Những thư đó được bỏ qua bưu điện, nhưng những thư đó được chặn, lấy lại. Chặn, lấy lại bằng cách nào thì chưa rõ, và cũng không cần thiết cho câu chuyên này. Ông Fauvin xóa dấu bưu điện, xóa địa chỉ trên thư, rồi để các bức thư đó vào trong cái thiết bị đặc biệt do ông ta tự chế tạo, và được ông hiệu chỉnh để sao cho lá thư thứ nhất sẽ xuất hiện 15 ngày sau khi ông ta chết; còn những lá thư khác thì cứ sau lá thư trước 10 ngày lại xuất hiện. Cho tới lúc đó ông ta chắc chắn là kế hoạch của ông đã được bố trí hoàn hào từng chi tiết. Ông ta biết mối tình của Xôvơrăng đối với vợ ông. Và theo dõi những hành vi của Xôvơrăng, ông ta nắm được Xôvơrăng, vì sợ hãi và vì kín đáo, nên cứ tối thứ tư hàng tuần lại đi qua nhà Fauvin, và Mari-An lại ngồi ở cửa sổ. Đây là một điểm mấu chốt, phát hiện ra được thật là đáng quý cho tôi và sẽ gây cho các vị một ấn tượng khôngkhác gì một chứng cớ bằng vật chất thực tế. Tôi xin nhắc lại: mỗi tối thứ tư, Xôvơrăng lại đi dạo xung quanh ngôi nhà. Và xin các vị nhớ cho: 1. Vụ ám sát do ông Fauvin chuẩn bị đã xảy ra vào một tối thứ tư ; 2. Tối hôm đó bà Fauvin, vì do yêu cầu khẩn thiết của chồng, nên bà đã đi xem hát kịch và đi đến nhà bà Ec-xanh-gie.

Ngay từ sáng hôm thứ tư đó, mọi mưu đồ đã được chuẩn bị sẵn sàng, chiếc máy đồng hồ tai ác đã được lên dây lại; bộ máy buộc tội chạy hoàn hảo: những chứng cớ buộc tội đã đặt vào chỗ để sẵn sàng xuất hiện. Hơn nữa, thưa ông quận trưởng, ông ta còn gửi tới ông một lá thư tố cáo mưu đồ chống lại ông ta, và yêu cầu sáng hôm sau- nghĩa là sau khi ông ta đã chết, ông đến can thiệp giúp đỡ ! Tóm lại, tất cả mọi sự việc đang diễn biến theo đúng ý muốn của «con người đố kỵ» thì bỗng xảy ra một sự kiện làm đảo lộn mọi dự kiến của ông ta: viên thanh tra Vêrô bước vào màn kịch, ông đã ra lệnh cho Vêrôđi điều tra, nắm những người có quyền thừa hưởng gia tài Moocninhtôn. Chuyện xảy ra giữa Fauvin và Vêrô như thế nào, có lẽ không bao giờ ai biết được nữa. Cả hai người đều đã chết, mang theo cái bí mật đi. Nhưng ít nhất chúng ta cũng có thể khẳng định là trước hết viên thanh tra Vêrô đã đến đây và đã mang mảnh sôcôla về, trên đó lần đầu tiên chúng ta thấy có in «vết răng cọp". Rồi sau đó, Vêrô trong trường hợp thế nào đó mà ta chưa rõ, phát hiện ra những dự án của ông Fauvin. Ta biết rõ như thế vì chính viên thanh tra Vêrô đã tự nói ra, với một nỗi sợ hãi ghê gớm. Chính nhờ ông Vêrô mà chúng ta được biết là tội ác sẽ diễn ra đêm hôm sau, vì ông ta đã ghi những điều phát hiện được, trong một lá thư đã bị người ta ăn cắp mất. Kỹ sư Fauvin cũng nắm được hành vi của viên thanh tra Vêrô nên phải khử kẻ thù đáng sợ này đang phá mọi âm mưu của mình. Cho nên Fauvin đã đầu độc ông Vêrô. Vì thuốc độc chưa có hiệu nghiệm ngay, nên Fauvin đã táo bạo, tự cải trang giống như Gattông Xôvơrăng, vì biết chẳng bao lâu nữa mọi nghi ngờ sẽ đổ dồn vào Xôvơrăng, nên đã nhanh trí táo bạo cải trang, đi theo thanh tra Vêrô đến liệm cà phê Tân-kiều đánh cắp lá thư tố cáo của Vêrô, thay bằng một tờ giấy trắng rồi cố ý hỏi thăm một người qua đường (để sau này người đó chứng minh là có trông thấy Xôvơrăng ở tiệm cà phê ra), lối đến ga xe điện ngầm đi Nơi-y, là nơi ở của Xôvơrăng. Thưa ông quận trưởng, Fauvin chính là con người ấy, chính là tên kẻ cướp ! Ở một tình huống như vậy và sợ những lời tố cáo của ông Vốrô sẽ có hiệu dụng trước khi mình đưa ra thực hiện dự án khủng khiếp. Nên muốn kiểm tra, Fauvin đã tới quận cảnh sát để xem có phải kẻ thù của mình đã chết thực chưa và nếu chết rồi thì không còn khả năng tố giác. Xin ông quận trrởng hãy nhớ lại màn kịch: sự dao động, sự khiếp hãi của con người «Thưa ông quận trưởng ! Xin ông hãy bảo vệ tôi .. có kẻ dọa giết chết tôi... Vâng, ngày mai tôi sẽ bị...». Phải ! Y đã yêu cầu hôm sau ông sẽ can thiệp giúp đỡ, vì y biết là đến hôm sau thì mọi việc đã xong xuôi từ đêm hôm trước. Và đến hôm sau thì lực

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net