văn

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

TRÀNG GIANG
_Huy Cận_
II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
1. Ý nghĩa nhan đề và câu đề từ
a. Nhan đề
- Điệp vần “ang”: cộng hưởng, tạo dư âm vang xa, trầm buồn, gợi cảm giác dòng sông như dài hơn, rộng hơn, vĩnh hằng hơnbiểu tượng của không gian bao la, vô tận.
- Tạo âm hưởng xa xôi: gợi sự trống vắng mênh mông của không gian và lòng người.
- Từ Hán Việt: gợi cảm giác xa xưa, cổ kính, trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, khiến dòng sông của Huy Cận không chỉ dài trong không gian mà còn dài trong thời gian.
Cảm hứng bài thơ: cảm hứng không gian nhưng là để chuyên chở một tâm trạng buồn bã, cô liêu và rợn ngợp của một con người thấy mình quá nhỏ bé, chơi vơi trước sự hùng vĩ bao la của trời đất.
b. Câu đề từ: Thể hiện nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả.
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
- Cảnh: trời rộng, sông dàikhông gian rộng lớn, vô biên.
- Tình: bâng khuâng, nhớdiễn tả trọn vẹn tâm trạng buồn bã, cô đơn, lạc lõng, nhớ thương, luyến tiếc xen kẽ nhau của chủ thể trữ tình.
- Chủ thể câu thơ có thể hiểu theo nhiều cách:
+ Con người “bâng khuâng” nhớ nhung trước “trời rộng”, “sông dài”; hay do “bâng khuâng” trước trời rộng mà “nhớ” sông dài.
+ Tạo vật: Trời rộng bâng khuâng nhớ sông dài.
Nét độc đáo của lời đề từ là sự giao thoa giữa cảnh và tình, giữa hai cách hiểu. Nó khiến cho không chỉ chủ thể nặng trĩu nhớ nhung, mà sông núi đất trời cũng tràn ngập bâng khuâng, nhung nhớ.
Nhan đề và lời đề từ đã định hướng cho cảm xúc chủ đạo của bài thơ: Nỗi buồn vũ trụ như một mạch sầu vạn kỉ chuyển hóa thành một nỗi buồn đìu hiu, xa vắng, mênh mang trải dài khắp các khổ thơ.
2. Phân tích văn bản
Khổ 1: Cảnh tràng giang mênh mông sóng nước
- Không gian sông nước mênh mang được mở ra ngay từ đầu bài thơ với hình ảnh sóng, thuyền, nước và cành củi khô.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”
- Hai câu thơ đầu gợi phong vị thơ cổ điển, phảng phất tứ thơ Đỗ Phủ trong bài Đăng cao:
“Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cổn cổn lai”
(Rào rào lá trút rừng cây thẳm,
Cuồn cuộn sông về sóng nước tuôn)
- Hình ảnh “sóng gợn” phác họa từng đợt sóng nhỏ lăn tăn, chuyển động nhẹ nhàng nhưng dai dẳng, hết đợt này đến đợt khác, gợi ra hình ảnh của một dòng tràng giang mênh mông, tĩnh lặng và buồn bãlấy động tả tĩnh.
+ “tràng giàng”: gợi một dòng sông rộng, dài, mênh mông xa vắng, trầm buồn với âm “ang” dàn trải.
- Từ láy nguyên “điệp điệp” vừa gợi hình, vừa gợi cảm:
+ Gợi hình ảnh những vòng sóng đang loang ra, lan ra, gối lên nhau, xô đuổi nhau đến tận chân trời.
+ Gợi cảm vì đem đến sự cảm nhận nỗi buồn của nhà thơ tan ra, trải ra cùng ngàn trùng lớp sóng, nối nhau triền miên không dứt trên dòng tràng giangsáng tạo, hình ảnh hóa nỗi buồn, nhấn mạnh mức độ của nỗi buồn: chồng chất, tầng tầng lớp lớp, triền miên.
+ “sóng” sóng nước
sóng lòng
Hình ảnh dòng sông với những con sóng gợn nhẹ, triền miên đến tận chân trời xa xăm. Hình ảnh đẹp của sóng kết hợp với âm điệu trầm buồn kéo dài trong hai tiếng “tràng giang” cùng từ láy “điệp điệp” không chỉ gợi nỗi buồn trên mặt sông mà còn gợi nỗi buồn trong lòng người, lan tỏa theo cảnh vật mênh mang ấy.

- Khung cảnh tràng giang càng xa vắng, đơn côi khi xuất hiện hình ảnh:
“Con thuyền xuôi mái/ nước song song”
+ Thuyền đã gác mái trôi vô định theo dòng nước, không tiếng mái chèo rẽ sóng, rẽ nước. Giữa không gian rộng lớn, con thuyền trở nên nhỏ bé bơ vơ.
- “Thuyền” và “nước” thường gắn bó, giao hòa nhưng ở đây thì ngược lại:
“Con thuyền xuôi mái/ nước song song
Thuyền về nước lại/ sầu trăm ngả”
+ Từ láy “song song”: hình ảnh con thuyền rẽ sóng, chia nước thành đôi ngả, gợi sự sóng đôi nhưng thực chất nhấn vào nỗi buồn chia lìa, không gắn bó.
+ Đối, tương phản “thuyền về” – “nước lại”: tạo cảm giác về sự chuyển động trái chiềunỗi sầu về sự chia li tan tác.
+ Cách sử dụng từ độc đáo “sầu trăm ngả”: vừa gợi nỗi sầu thăm thẳm, da diết, mênh mang vừa gợi lên hình ảnh những con nước cứ tuôn đi muôn dặm, lan tỏa trên dòng tràng giang.
+ “Con thuyền”: biểu tượng cho cuộc đời lênh đênh, vô định của con người trước cách mạng, chẳng biết sẽ còn phải gặp những sóng gió nào khi mà bủa vây xung quanh là “trăm ngả” sầu.
- Trên dòng tràng giang buồn vắng phảng phất không khí Đường thi ấy lại xuất hiện một hình ảnh mang hơi thở hiện đại:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
+ “Củi”: hình ảnh độc đáo, gần gũi, sống sít hiện thực.
+ “khô”: cụ thể hơn hình ảnh “củi”, sức sống hoàn toàn cạn kiệt, khô héo.
+ Ngắt nhịp (1/3/3), đảo ngữ, phép tương phản “củi một cành khô” >< “lạc mấy dòng”: nhấn mạnh sự chìm nổi cô đơn, lạc lõng của kiếp củi trước thiên nhiên, vụ trũ bao laẩn dụ độc đáo về thân phận, kiếp người nhỏ bé, lênh đênh, lạc loài giữa cái mênh mông, vô định của dòng đời trong xã hội cũNỗi băn khoăn day dứt của cả một thời đại, một thế hệ mất nước, quẩn quanh, bế tắc đi tìm lẽ sống cho mình.
 Với những hình ảnh vừa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng, cấu trúc đăng đối, âm điệu miên man, da diết, khổ thơ thứ nhất đã mở ra không gian sông nước bao la, vô định, rời rạc, hờ hững. Các sự vật đều xa cách, chia li, không có điểm gặp gỡ, giao hòa. Tất cả đều chất chứa một nỗi buồn mênh mang, không dứt – đó chính là tâm trạng cô đơn, bế tắc, lạc lõng trước cuộc đời, hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ.
Khổ 2: Cảnh cồn bến hoang vắng
a. Cảnh cồn, chợ vắng lặng, đìu hiu – bơ vơ, cô đơn
- Cảnh sông nước có thêm sự xuất hiện của đất, của người nhưng càng gợi cảm giác quạnh hiu, buồn bã.
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”
+ “Lơ thơ cồn nhỏ”: những cồn cát nổi lên giữa dòng sông ít ỏi, thưa thớttừ láy, đảo ngữ càng nhấn mạnh sự rời rạc, thưa thớt của cảnh vật.
+ “Gió đìu hiu”: gió nhỏ, nhẹ, gợi sự buồn tẻ, hoang vắng, thê lương, khiến mặt sông càng trở nên rộng lớn.
Cảnh sông: cồn nhỏ lơ thơ, gió đìu hiu gợi lên cái vắng lặng, lạnh lẽo, cô đơn đến rợn ngợp.
+ Theo Huy Cận, từ “đìu hiu” ông học được trong bản dịch Chinh phụ ngâm:
Non kì quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Câu thơ gợi sự trống vắng, hiu quạnh, thiếu sức sống.
- Sự xuất hiện của âm thanh: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”.
+ “Chợ chiều” vốn đã buồn, tàn tạ, xác xơ mà lại còn là “chợ chiều” đã “vãn” càng buồn hơn, tàn tạ hơntăng thêm sự vắng lặng cho cảnh vật.
+ Câu hỏi tu từ “Đâu tiếng làng xa…”: có thể hiểu theo nhiều cách:
“đâu”: từ phủ định, ngay cả tiếng chợ chiều cũng không có được.
“đâu”: nơi chốn, gợi âm thanh mơ hồ, xa vắng của chợ chiều sắp tàn vẳng lại từ một làng xa xăm nào đó.
“đâu”: đại từ để hỏi, gợi sự tìm kiếm như một nỗi niềm khao khát của nhà thơ về một chút sự hoạt động, một chút âm thanh sự sống của con người.
Âm thanh không có hoặc có đi chăng nữa thì nó cũng quá bé nhỏ so với trời đất bao la rộng lớn. Dù hiểu theo cách nào thì cũng gợi lên một không gian vắng lặng, cô tịch, chỉ có thiên nhiên lặng lẽ trong khi sự sống của con người thì xa vắng, mơ hồThủ pháp lấy động gợi tĩnh.
b. Cảnh vật mênh mông, rộng lớn - nhỏ bé, rợn ngợp
- Không gian mênh mông, trời rộng sông dài bỗng đột ngột được đẩy lên cao và mở ra bốn phía đến vô cùng làm cảnh vốn đã trống vắng càng thêm tịch mịch hơn:
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”
+ “nắng xuống” >< “trời lên”: cấu trúc tương phản: bước chuyển động của nắng và sự giãn nở của bầu trời, mở ra không gian vô biên theo cả bốn chiều: chiều sâu, chiều cao, chiều dài, chiều rộng.
+ “nắng” >< “trời” được đặt trong những chuyển động trái chiều “lên” – “xuống”, khiến không gian vốn đã vô cùng càng mở rộng thêm ra, gợi cảm giác về một sự chia lìa.
+ Nắng xuống và trời lên để lại một khoảng trống thăm thẳm, làm nên cảm giác “sâu chót vót”: cách miêu tả độc đáo, vô lí mà hợp lí, lấy tính từ chỉ chiều cao để miêu tả chiều sâu.
Không gian vũ trụ không chỉ cao vời, bao la mà còn sâu thăm thẳm, vô thủy vô chung.
Độ cao của vòm trời đã được đồng nhất với cái đáy cùng của vũ trụ khiến nó trở nên vô hạn.
+ Chữ “sâu” là nhãn tự của câu thơ: đặc tả cái mênh mang không cùng của vũ trụ và sự trống trải, không đáy của lòng ngườiKhoét sâu nỗi buồn vô tận, thăm thẳm của nhà thơ Huy Cận nói riêng và các nhà thơ mới nói chung.
- Trong áp lực của cái nhìn xa hút, sâu vào tận đáy vũ trụ, có cảm giác “sông dài” ra, “trời rộng” thêm, “bến cô liêu” đi: biện pháp liệt kê, đối lập làm nổi rõ sự cô độc, bé nhỏ, rợn ngợp của con người trước sự vô cùng, bao la của vũ trụ.
+ “Bến cô liêu” – bến sông nhỏ bé, vắng người. Cái nhỏ bé của bến sông như một nét chấm phá gợi tả cái bao la bát ngát của không gian. Qua đó càng tô đậm cảm giác cô đơn rợn ngợp của con người trước vũ trụ bao laLấy điểm tả diện.
Bằng những từ láy gợi hình gợi cảm, những thi pháp cổ điển của Đường thi, những thủ pháp nghệ thuật sáng tạo, thi nhân đã khắc họa nên sự đối lập giữa cái bao la, rộng lớn của không gian với cái ít ỏi, thưa thớt của sự vật và cái bé nhỏ, đơn độc của nỗi sầu trong tâm hồn con người. Cảnh vừa đìu hiu, vắng lặng vừa rộng lớn mênh mông càng đặc tả nỗi cô đơn, cảm giác rợn ngợp, bơ vơ, nhỏ bé của con người.
Khổ 3: Cảnh bờ bãi quạnh quẽ
- Bao trùm khổ thơ là nỗi buồn quạnh hiu, trống vắng đến đây trở thành hoang vắng như được nhân lên qua mấy phần phủ định.
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”
+ Câu thơ gợi nhớ đến câu ca quen thuộc: “bèo dạt mây trôi”.
+ “Bèo”: hình ảnh tả thực - những cánh bèo dập dềnh trên sông mang thân phận lạc loài đáng thương, gợi sự tan tác chia lìa.
+ Câu hỏi tu từ “dạt về đâu” gợi cái bơ vơ, lạc loài, sự trôi nổi, vô định của cánh bèoHình ảnh tượng trưng cho những kiếp phù sinh, cho cuộc sống không ý nghĩa.
+ “Hàng nối hàng”: nhiều, miên man không dứt nhưng xếp cạnh nhau một cách vô cảm trôi dạt vô định trên sôngNỗi buồn nối tiếp nỗi buồn, cả một thế hệ nối tiếp nhau trong nỗi buồn vô tận, trong cuộc sống quẩn quanh, đơn điệuMột lần nữa nhấn mạnh nỗi cô đơn vẫn thường trực trong tâm hồn nhà thơ.
- Tiếp tục tìm sự kết nối với con người nhưng:
“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật”
+ Sự cô đơn thường trực đã khiến con người cố gắng dõi mắt tìm kiếm những biểu hiện của sự sống “chuyến đò ngang” – tín hiệu của sự giao hòa, sự sống thân mật, ấm áp; “cầu” – để kết nối hai bờ thế nhưng đều không có, tuyệt nhiên không có một dấu vết nào của sự sống.
+ “Không đò”, “không cầu”: sử dụng hai lần phủ định “không” nhấn mạnh sự hoang vắng, không có chút hơi ấm nào của con ngườiPhủ định tuyệt đối mọi biểu hiện của sự sống, phủ nhận sự liên kết giữa các sự vậtSự vắng vẻ, hiu quạnh được đẩy lên đến cao độ tuyệt đốiLấy nhiều cái “không” để làm một nổi bật một cái “có”: khát khao giao cảm mãnh liệt với cuộc sống trong tình cảnh cô độc.
- Và cảm giác của nhà thơ lại trở về với chiều dài và chiều rộng trong câu đề từ, khi ông viết:
“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.
+ Cảm giác về “không” gặp lại ở “lặng lẽ”, không hình, không cả tiếng chỉ có thiên nhiên hoang vắng với bờ xanh bãi vàng đang trải ra xa vắng, mênh mông – sự đáp trả vô tình, hờ hững đối với khát khao giao cảm mãnh liệt của con người mang nỗi buồn vô tận, mang nỗi cô đơn thường trực trong tâm hồn.
+ “Mênh mông”, “lặng lẽ” từ láy gợi hình, gợi cảm kết hợp đảo ngữ: nhấn mạnh sự hoang vắng, tĩnh lặng như thời tiền sử của cảnh vật và nỗi cô đơn thường trực, khát khao tìm kiếm sự cảm thông của đồng loại nhưng hoàn toàn vắng bóng trong tâm hồn con người.
Nhà thơ như đang lạc giữa ốc đảo tràng giang, chỉ có mình với nỗi cô đơn. Sự cô đơn được đặc tả độc đáo bằng sự thiếu vắng, những hình ảnh phù du vô định. Nhân vật trữ tình khát khao sự sống, khát khao được hòa hợp, giao cảm nhưng cuối cùng vẫn chìm trong thất vọng.
Khổ 4: Cảnh hoàng hôn kì vĩ - Tấm lòng thương nhớ quê hương của tác giả
a. Bức tranh thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”
- “Mây”: đùn thành núi
+ “Lớp lớp”: từ láy, gợi hình ảnh đám mây nhiều tầng, nhiều lớp, tạo ấn tượng về sự trùng điệp của các núi mây.
+ Động từ “đùn”: sự vận động sinh sôi không ngừng của mây, khiến mây như chuyển động, xô đẩy, dồn lại, được sáng tạo từ ý thơ của Đỗ Phủ:
“Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa” - (Thu hứng)
+ Đảo ngữ, ẩn dụ so sánh: những đám mây trắng được ví như núi bạcCách liên tưởng độc đáo, những đám mây trắng đùn lên trùng điệp phía chân trời được ánh trời chiều phản chiếu vào lấp lánh như núi bạc, lớp lớp ở một góc trời.
Câu thơ đầu vẽ nên hình ảnh bầu trời rạng lên vẻ đẹp rực rỡ trong ánh nắng cuối cùng của buổi chiều tà. Những tia sáng rọi chiếu vào những đụn mây ở cuối chân trời xếp chồng lên nhau tạo thành núi mây trắng trông như dát bạcBức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ, rực rỡ và nên thơ.
- Giữa cái bao la mênh mông, kì vĩ ấy bỗng xuất hiện một cánh chim nhỏ nhoi:  
“Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”
+ chim nghiêng cánh nhỏ >< mây cao, núi bạc, bóng chiều sa
               
              bé nhỏ                   bao la, rộng lớn
Thủ pháp đối lập, lấy điểm tả diện: hình ảnh cánh chim nhỏ bé, yếu ớt, cô đơn trong mối tương phản với thiên nhiên rộng lớn, càng làm cho cảnh rộng hơn, mênh mông hơn, xa vắng hơn.
+ Dấu hai chấm ở giữa câu thể hiện sự tương tác giữa cánh chim và bóng chiều: cái nghiêng mình của cánh chim như hoán đổi thời gian: bóng chiều đổ sập xuống theo cái nghiêng cánh của chim hay bóng chiều nghiêng xuống kéo theo cánh chim cũng nặng trĩu, chao nghiêng.
- Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng “cánh chim” và “bóng chiều” vốn là những hình tượng thẩm mĩ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.
Cánh chim bay liệng tuy có gợi lên chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng mông lung quá, không làm vơi đi được nỗi buồn của thi nhân. Nỗi buồn của thi nhân như không còn đóng khung lại mà mở ra cùng cánh chim vươn tới những chân trời xa, cùng bóng chiều thấm sâu vào cõi lòng nhân thế.
Thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ càng đè nặng, càng nhấn chìm cái tôi nhỏ bé, cô đơn, lạc lõng, không tìm thấy sự giao hòa, giao cảm.
b. Khao khát tìm về tình quê – chốn nương tựa yên bình
- Tâm trạng tác giả: nhớ nhà, nhớ quê. Và lúc này đây nhà thơ không nhìn vào vũ trụ, bầu trời nữa mà nhìn vào lòng mình, thi nhân gọi lòng mình là “lòng quê”.
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
+ “Lòng quê”: nỗi lòng nhớ quê hương (không phải tấm lòng chất phác, quê mùa).
+ “Dợn dợn”: từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận. Diễn tả hình ảnh con nước dâng cao không ngất, cao hơn, mạnh hơnvừa gợi sóng sông vừa gợi sóng lòngLòng thương nhớ quê hương dâng trào trong tâm hồn nhà thơ như những con sóng trên mặt nước, lan xa theo con nước trở thành một cảm giác thấm thía, da diết khôn nguôi.
+ Chữ “vời” chỉ khoảng cách, được hiểu theo nghĩa là trông mãi về phương xa, hướng về quê hươngNhà thơ đang nhìn mãi về phương xa, tấm lòng cũng cứ lan theo mặt nước ra xa, trải ra đến vô tận.
+ Từ láy “dợn dợn” hô ứng với cụm từ “vời con nước” cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”Nỗi niềm nhớ quê hương, đứng giữa quê hương nhưng quê hương đã không cònĐây là tâm trạng chung của các nhà thơ mới nước ta: nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.
- Câu thơ cuối: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” mượn ý thơ trong bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu càng khắc sâu cảm giác buồn, nhớ quê hương trước cảnh sông nước lúc chiều tà:
“Nhật mộ hương quan hà sứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
- “Không khói hoàng hôn…”Sử dụng nghệ thuật phủ định để khẳng định. Thôi Hiệu nhìn khói sóng trên sông mà nhớ nhà. Còn Huy Cận không có một tín hiệu nào ở ngoại cảnh tác động mà vẫn nhớ quê da diết, khắc khoải.
Bằng sự xuất hiện nỗi nhớ làng quê cái buồn ở trong thơ Huy Cận không trĩu xuống mà đã tìm được một điểm tựa yên bình và ấm áp.
Vừa là nỗi buồn của người lữ thứ xa quê vừa là nỗi buồn của cả một thời đại - thời đại của những con người mang nỗi đau mất nước, bơ vơ, lạc lõng đi tìm lẽ sống, đi tìm một điểm nương tựaẨn sau nỗi nhớ nhà, nhớ quê là lòng yêu nước thầm kín thiết tha.
Với sự kết hợp độc đáo giữa chất cổ điển và nét hiện đại, khổ thơ 4 là bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ, mang đậm phong vị Đường thi nhưng cũng nặng trĩu điệu hồn thơ mới, điệu hồn của cái tôi sầu, cô đơn, bơ vơ, lạc lõng. Chính cái bao la, hùng vĩ của cảnh vật càng khiến thi nhân bơ vơ, lạc lõng, muốn tìm về quê hương như một bế bờ bình yên để tựa nương. Đây cũng chính là biểu hiện của một tấm lòng tha thiết đối với quê hương đất nước.
III. Tổng kết
- Bài thơ mang nỗi buồn mênh mang thiên cổ, nỗi sầu vũ trụ, nỗi sầu nhân gian và thấm đượm tình yêu thiên nhiên đất nước kín đáo mà thiết tha.
- Nỗi buồn và tấm lòng ấy được thể hiện bằng sự kết hợp giữa chất cổ điển và hiện đại.
- Nghệ thuật đối, bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình, hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm.






Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net

#tailieu