ôn tap van hoc ki 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng
để bày tỏ sự xót thương, đồng cảm với những thân phận bị chà đạp, vùi dập.

    5. Đánh giá chung:

    a) Tô Hoài là ngòi bút già dặn trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Mị nhân vật điển hình vừa có cá tính sinh động vừa có tính khái quát. Con đường của Mị đến với cách mạng rất tiêu biểu cho hành trình số phận của người dân lao động miền núi: "Từ thung lũng đau thương đến cánh đồng vui".

    b) Qua nhân vật Mị và truyện Vợ chồng A Phủ, còn thấy một Tô Hoài giàu lòng thương yêu, phong phú vốn sống, am hiểu tâm lí con người và vốn ngôn ngữ thật giàu có.

    Đề 3.    Phân tích nhân vật A Phủ.

Đáp án 1

A. Yêu cầu:

    1. Phân tích và chỉ ra được những nét tính cách cơ bản của A Phủ.

    2. Thấy được nghệ thuật xây dựng nhân vật của Tô Hoài và tấm lòng yêu thương của ông với con người.

    B. Nội dung chính cần có:

    1. Giới thiệu chung

    Tô Hoài (1920) là cây bút có tên tuổi từ trước cách mạng với hai mảng đề tài: loài vật và cuộc sống người dân nghèo ven đô. Sau cách mạng, Tô Hoài đi sâu vào mảng đề tài miền núi và có nhiều thành công đáng ghi nhận.                                               

    Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công ở mảng đề tài miền núi in trong tập Truyện Tây Bắc (1953). Truyện viết về hai giai đoạn trong cuộc đời Mị và A Phủ: ở Hồng Ngài (trong nhà thống lí) và ở Phiềng Sa (đến với cách mạng). Phần trích trong SGK là phần đầu. A Phủ - nhân vật tiêu biểu cho số phận của người dân lao động miền núi trước cách mạng.                                      

    2. Phân tích nhân vật A Phủ.

    a) A Phủ tiêu biểu cho đời sống cực khổ của người dân lao động miền núi dưới ách thực dân phong kiến.      

    - Nghèo khổ: không cha không mẹ, không có ruộng, không có bạc, không lấy được vợ, bị bắt bán đi khắp nơi rồi lưu lạc đến Hồng Ngài.

    - Bị áp bức bóc lột nặng nề: bị bắt, bị đánh đập một cách tàn nhẫn theo kiểu thời trung cổ. Phải chịu bất công vô lí trong xử kiện, phải làm người hầu hạ, người ở không công suốt đời cho nhà thống lí tàn ác. Mất bò của thống lí phải thế mạng sống của mình.

    b) A Phủ tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của người lao động.

    - Khoẻ mạnh, tài giỏi, yêu đời: chạy nhanh như ngựa, biết đục cuốc, đúc lưỡi cày, săn bò tót rất bạo, tết không có áo mới vẫn đem sáo, đem khèn đi tìm người yêu.

    - Có tinh thần phản kháng, gan góc, bộc trực, mạnh mẽ: bị bán xuống vùng thấp đã trốn lên núi cao. Biết A Sử con quan vẫn đánh cho một trận nhừ đòn. Quỳ chịu đòn như mưa suốt đêm mà chỉ "im như tượng đá". Bị trói, nhay đứt hai vòng dây mây. Vùng chạy khi được Mị giải thoát…     

    c) A Phủ cũng có nhợc điểm là nhẫn nhục, cam chịu: cam tâm cầm dao đi giết lợn phục dịch lũ người vừa đánh mình, tự tay chôn cọc, lấy dây cho thống lí trói mình.             

    d) Những nét tính cách tưởng chừng đối lập trong con người A Phủ lại hoàn toàn hiện thực và lôgic. Nó là sản phẩm của một người con được sinh ra từ núi rừng miền Tây khoáng đạt nhưng cũng chịu quá nhiều tầng áp bức bóc lột nặng nề.

    3. Đánh giá chung

    Tô Hoài là ngòi bút già dặn trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. A Phủ trở thành con người tiêu biểu cho số phận của những người dân lao động miền núi trước cách mạng. Con đường của A Phủ đến với cách mạng cũng tiêu biểu cho hành trình số phận của người dân miền núi nói chung: "Từ thung lũng đau thương đến cánh đồng vui".

    Qua nhân vật A Phủ và truyện Vợ chồng A Phủ, còn thấy Tô Hoài-một ngòi bút hiện thực, giàu lòng thương yêu, phong phú vốn sống, am hiểu tâm lí con người và kho từ vựng thật giàu có.                          

Đáp án 2

    1. Vợ chồng A Phủ là một trong ba truyện ngắn của tập Truyện Tây Bắc đợc Tô Hoài sáng tác năm 1953. Truyện kể về hai chặng đờng đời của Mỵ và A Phủ: những ngày ở Hồng Ngài trong nhà thống lý Pá Tra và khi sang Phiềng Sa - nên vợ nên chồng, gặp gỡ cách mạng và trở thành du kích. Trong đó A Phủ là nhân vật gây ấn tợng khá sâu sắc.

    2. Tác giả cho A Phủ xuất hiện thật đột ngột trong cảnh đánh nhau với A Sử, bị bắt trói, bị đánh đập tàn nhẫn ở nhà Pá Tra rồi mới kể về lai lịch của nhân vật. Đó là một người nghèo khổ đã mất cả cha mẹ và anh em trong một trận dịch đậu mùa khủng khiếp, đã phải sống bơ vơ khi còn rất nhỏ và "người làng đói bụng bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của ngời Thái dưới cánh đồng". Không cam chịu cuộc sống khốn khổ, mới mười tuổi đầu, A Phủ đã trốn đi và bước chân lưu lạc đã đưa A Phủ tới Hồng Ngài. Ở đây A Phủ đã tự khẳng định tính cách gan góc: một mình kiếm sống, học hỏi đủ các thứ nghề "biết đúc lưỡi cày... lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo". Khi lớn lên, A Phủ chẳng những hiền lành, chăm chỉ mà còn có sức khoẻ hơn người nên mới có lời bàn tán của các cô gái: "Đứa nào được A Phủ cũng bằng có được trâu tốt trong nhà ...". Tuy vậy, với tập tục khắc nghiệt của xã hội miền núi đương thời, A Phủ chẳng những bị khinh thường mà thực tế cũng chẳng bao giờ anh kiếm đủ tiền để làm nhà và cưới vợ.

    3. Đau khổ hơn, A Phủ là đứa con của núi rừng tự do mà vẫn không sao thoát khỏi kiếp sống nô lệ. Sự việc xảy ra vào đêm hội mùa xuân, A Phủ dám đánh cả con quan "chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử... Nó vừa kịp bưng tay lên, A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống xé vai áo, đánh tới tấp". Hành động dữ dội đó của A Phủ có nguyên cớ sâu xa từ mối hận thù giai cấp. Sau đó, bị bọn tay chân  Pá Tra đánh đập rất dã man, A Phủ không hề khóc lóc, van xin, trái lại "A Phủ quỳ chịu đòn, chỉ im như cái tượng đá". Cuối cùng trong cảnh xử kiện quái gở khi kẻ phát đơn kiện cũng là kẻ ngồi ghế quan toà, A Phủ đã bị Pá Tra buộc làm nô lệ suốt đời để trừ nợ. Đó là cái kiếp sống bị khinh rẻ, bị ngược đãi và phải gánh vác những việc nặng nhọc, nguy hiểm nhất, "cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa; quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng...".

    4. Tính mạng của A Phủ sống hay chết cũng được quyết định bởi bàn tay tàn bạo của Pá Tra. Chỉ vì  để hổ bắt một con bò, A Phủ đã bị Pá Tra trói đứng vào cọc "bằng dây mây quấn từ chân lên vai" và nếu bọn A Sử không bắt được hổ mang về thì chắc chắn A Phủ sẽ phải chết, "chết đau, chết đói, chết rét" như Mỵ từng chứng kiến những cảnh tơng tự. Tuy vậy, với tình yêu cuộc sống mãnh liệt, với bản tính gan góc, bất khuất sẵn có, A Phủ không cam chịu chết mà tìm mọi cách tự giải thoát: "Đến đêm, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai vòng mây, nhích dãn dây trói một bên tay" và với sự giúp đỡ của Mỵ, A Phủ đã được tự do. Hai người trốn khỏi Hồng Ngài, tới khu du kích Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu. A Phủ và Mỵ lần lượt trở thành du kích, tích cực tham gia vào cuộc chiến đấu để giải phóng hoàn toàn cuộc đời mình, giải phóng bản làng quê hương.

    5. Cùng với Mỵ, cuộc đời và tính cách của A Phủ có ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và phẩm chất của người dân vùng cao Tây Bắc. Từ trong bóng tối của cuộc đời đầy đau khổ, tủi nhục, họ đã vươn tới ánh sáng rực rỡ của nhân phẩm và tự do, đến với cách mạng.

  Đề 4. Các ý chính:

    1. Vài nét về tác giả và tác phẩm

    - Về tác giả: Tô Hoài là nhà văn hiện đại xuất sắc. Ông thành công về nhiều thể loại (truyện, tiểu thuyết và kịch bản...), nhiều đề tài, trong đó, có đề tài ông quan tâm sâu sắc: đề tài miền núi. Hiện thực cuộc sống và con người miền núi trong tác phẩm Tô Hoài hiện lên chân thật và sinh động do có nhiều năm ông sống và gắn bó với nhân dân nơi đây. Tác phẩm ông giàu chất sống và đạt giá trị nhân đạo cao với một trình độ nghệ thuật vững vàng.

    - Về tác phẩm: Vợ chồng A Phủ là tác phẩm tiêu biểu của Tô Hoài về đề tài này, được rút từ tập Truyện Tây Bắc (giải nhất Giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955); là kết quả thâm nhập thực tế và quá trình chuyển biến tư tưởng và nghệ thuật của nhà văn. Tác phẩm đạt nhiều phẩm chất, trong đó nổi bật nhất là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.

    2. Qua nhân vật Mỵ chứng minh giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm

    a) Phân tích nhân vật Mỵ

    - Mỵ và bi kịch đớn đau:

    Từ một cô gái hồn nhiên, yêu đời, hiếu thảo..., Mỵ bị bắt làm con dâu gạt nợ do bố mẹ vay ở nhà thống lý Pá Tra với cuộc sống im lìm, tăm tối, cơ cực như kẻ nô lệ. Mỵ đau khổ, phản ứng quyết liệt và định ăn lá ngón tự tử, cô "sống mà như chết", "cúi mặt buồn rười rượi", "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa", có chồng mà cũng như không.

    - Mỵ và sự diễn biến tình cảm, ý thức:

    Từ khổ đau đến chịu đựng vì bị đày đoạ về thể xác và áp chế về tinh thần, Mỵ bị ràng buộc trong ý nghĩ mình bị bố con Pá Tra "trình ma" là người nhà nó rồi thì chỉ còn biết ở cho đến lúc chết rũ ở đây thôi, dẫn đến sự tê liệt tinh thần phản kháng. Lúc nào Mỵ cũng nhìn ra ô cửa vuông bằng bàn tay, chỉ thấy một màu nhờ nhờ trăng trắng "không rõ là sương hay là nắng". Cô mất ý thức về sự sống, thậm chí, không nghĩ đến cái chết nữa. Mỵ phó mặc cuộc sống cho định mệnh, cô không ý thức về thời gian, không nhớ làm dâu nhà Pá Tra bao nhiêu năm. Với Mỵ, sự chuyển biến của thời khắc: sớm tối, ngày tháng không có ý nghĩa gì, không gợi cảm xúc gì, cuộc sống chỉ còn là một màn sương mờ đục, không dĩ vãng, hiện tại và tương lai.

    - Mỵ với sức sống tiềm tàng và sự hồi sinh kỳ diệu:

    Bước chuyển đầu tiên thể hiện sự trỗi dậy của Mỵ là lòng ham sống, là sự ý thức trở lại về sự sống, thời gian, về khát vọng tinh thần (mùa xuân về, những đêm tình mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình khiến Mỵ yêu đời, ham sống, Mỵ nhớ về ngày trước, Mỵ uống rượu...).

    Mỵ hành động như con người tự do. Càng bị đè nén, áp bức sức sống trong con người Mỵ càng mãnh liệt, dâng trào: "Mỵ phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sớng như những đêm Tết ngày trước. Mỵ trẻ lắm. Mỵ vẵn còn trẻ, Mỵ muốn đi chơi". Từ những sôi sục trong tâm trí đã biến thành hành động: "Mỵ đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đèn cho sáng". Có thể xem đây là hành động thức tỉnh, tự mình thắp sáng ngọn lửa soi mình để thoát khỏi những đêm dài tăm tối triền miên... Cô quấn lại tóc, rút cái váy hoa, sửa soạn đi chơi tết..., rồi bị A Sử trói vào cột.

    Bị trói, Mỵ quên những đớn đau thể xác, quên mình đang bị trói, cô sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa niềm khao khát hạnh phúc cháy bỏng và sự thật tàn bạo, lạnh lùng. Hành động cuối cùng khi Mỵ cởi trói cho A Phủ là hành động có ý nghĩa trong bước ngoặt của đời cô để cứu người và cứu mình, tự giải phóng khỏi vòng nô lệ. Nó chứng minh cho sức sống tiềm tàng đánh thức từng bước ý thức và hành động nên sức sống tâm hồn trong Mỵ là bất diệt.

    b) Giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc

    Đây là hai giá trị nổi bật của tác phẩm, chúng hoà quyện và bổ sung nhau, làm nên chủ đề tư tưởng của toàn truyện.

    * Giá trị hiện thực

    - Tác phẩm tố cáo chế độ phong kiến, chúa đất đã bóc lột con người dưới hình thức cho vay nặng lãi, buộc người lao động nghèo khổ vào vòng nô lệ; tố cáo sự chà đạp lên tình yêu, hạnh phúc và phẩm giá con người, gắn con người vào vòng mê tín thần quyền làm cho họ phải bất lực, cam chịu.

    - Không chỉ dừng ở chỗ tố cáo sự áp bức, bóc lột mà sâu hơn, Tô Hoài còn nói lên sự thực có tính quy luật: con người bị áp bức cứ nhẫn nhục chịu đựng kéo dài đến lúc nào đó thì dường như bị tê liệt tinh thần phản kháng và mặt khác, đến lúc nào đó, khi sự ý thức về quyền sống trỗi dậy, thì sức sống tiềm tàng cũng mạnh mẽ, kỳ diệu.

    - Tác phẩm còn miêu tả một cách cô đọng nhưng sinh động quá trình trưởng thành, vấn đề khát vọng tự do, hạnh phúc của nhân dân miền núi và con đường giải phóng của họ. Bức tranh thiên nhiên và những phong tục, tập quán được nhà văn tái hiện chân thật; ngôn ngữ giàu chất tạo hình...

    * Giá trị nhân đạo

    - Cùng với sự tố cáo là lòng xót thương, cảm thông vô hạn của Tô Hoài đối với nhân dân lao động miền núi, đặc biệt là người phụ nữ, những kiếp đời bi kịch đang chết dần, chết mòn vì đau khổ. Nhà văn hướng ngòi bút vào sự ảm đạm, đen tối nhưng để hướng vào phía sự sống và ánh sáng tâm hồn của con người, ca ngợi vẻ đẹp và sức mạnh tinh thần của họ. Hiện thực dù đen tối nhưng không thể huỷ diệt được mầm sống tiềm tàng.

    - Ngòi bút Tô Hoài thấm nhuần tinh thần nhân đạo thể hiện trong niềm tin, sự trân trọng đối với khát vọng sống trong sạch, lương thiện, giàu tình người của những con người bị đoạ đày, lăng nhục, khát khao tìm đến ánh sáng của cuộc đời mới; Tô Hoài đã thấy được bước chuyển biến sâu sắc trong con người Mỵ và A Phủ xuất phát từ lòng nhân ái và sự đồng cảm số phận để vươn lên hành động tự cứu mình, cứu người, tự giải phóng mình khỏi ách nô lệ.

    3. Kết luận:

    - Khẳng định lại giá trị của tác phẩm và sự đóng góp của Tô Hoài ở đề tài miền núi về hình thức và nội dung.

    - Khái quát lại ý nghĩa điển hình của nhân vật Mỵ và giá trị nhận thức giáo dục từ việc phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo nói trên; và liên hệ với thực tế.

Đề 5.

    1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và tóm tắt sơ lược tác phẩm dẫn đến tình huống:

    a) Tác giả Tô Hoài với đề tài thiếu nhi, đề tài miền núi trong những sáng tác của ông. Đặc biệt Vợ chồng A Phủ (1953), Miền Tây (1967) là những thành công xuất sắc khi ông viết về nhân dân các dân tộc Tây Bắc.

    - Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ viết về sự vùng dậy của đồng bào H'Mông Tây Bắc thông qua cuộc đời cô gái là Mỵ và chàng trai A Phủ.

    - Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm này.

    b) Tóm tắt những chi tiết quan trọng ở phần đầu của truyện để dẫn đến tình huống Mỵ cởi trói cứu A Phủ rồi chạy trốn. Cụ thể:

    - Mỵ xinh đẹp, chăm chỉ, nhà nghèo, hiếu thảo.

    - Trở thành con dâu gạt nợ của nhà thống lý, chịu nhiều đau khổ, đã từng định tự tử bằng nắm lá ngón. Từng uống rượu và có hành động muốn đi chơi trước mặt A Sử trong đêm tình mùa xuân.

    - Gặp A Phủ "đứa ở gạt nợ của nhà thống lý" (A Phủ đi chăn bò, bò mất, bị trói vào cột, sắp chết...).

    2. Diễn biến tâm lý của Mỵ trong đêm cởi trói cứu A Phủ

    Có thể có những cách phân tích, trình bày nội dung này theo những cách khác nhau. Nhưng yêu cầu phải phân tích diễn biến tâm lý của Mỵ, đặc biệt trước và sau khi cởi trói cho A Phủ. Cụ thể:

    a) Ban đầu, Mỵ vẫn "thản nhiên thổi lửa, hơ tay" không có cảm xúc gì, dù đêm nào Mỵ cũng ra sưởi và nhìn thấy cảnh A Phủ bị trói. Bởi vì Mỵ đã quen với cái khổ của chính mình và của người khác. Tâm hồn Mỵ dường như vô cảm, chai cứng trở lại: "Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi".

    b) Đêm khuya, hình ảnh "dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại" của A Phủ bỗng khơi dậy trong Mỵ những hồi ức về quá khứ (cũng bị trói như thế), về sự "độc ác" của bọn chúa đất; khơi dậy trong Mỵ nỗi lo và thương A Phủ: "chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết" và tự hỏi "Người kia việc gì mà phải chết thế".

    c) Mỵ lại tưởng tượng, nhớ lại đời mình, nghĩ rằng nếu cởi trói cho A Phủ thì Mỵ liền phải trói thay vào đây... nhưng trong tình cảnh này, Mỵ không thấy sợ. Và Mỵ quyết định cắt dây trói cứu A Phủ: lặng lẽ cắt nút dây mây, gỡ hết dây thì hốt hoảng giục A Phủ "đi ngay", rồi Mỵ nghẹn lại, "đứng lặng trong bóng tối".

    d) Cứu được A Phủ, Mỵ không đứng lại chờ người nhà thống lý đến bắt. Mỵ lại sợ. Mỵ vụt chạy ra, đuổi kịp A Phủ, "đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc. Mỵ nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt", đòi đi theo A Phủ vì "Ở đâu thì chết mất".

    e) Tóm lại, trong đêm cởi trói cứu A Phủ, diễn biến tâm lý trong Mỵ rất phức tạp: vừa thờ ơ lãnh đạm vừa thương thân phận mình và thân phận người, vừa căm giận nhà thống lý độc ác và lo sợ khi nghĩ đến cái chết và lại vừa muốn cứu giúp A Phủ, đã dứt khoát để cứu người nhưng không dám ở lại Hồng Ngài... Tất cả những biểu hiện tâm lý và hành động của Mỵ trong đêm cứu A Phủ đều phù hợp với hoàn cảnh và tính cách của Mỵ. Chính tình huống truyện này càng khẳng định tài năng nghệ thuật của Tô Hoài trong việc thống nhất giữa chân lý nghệ thuật và chân lý đời sống.

    3. Ý nghĩa nhân đạo của tình huống truyện

    Sau khi phân tích diễn biến tâm lý Mỵ trong đêm cởi trói cứu A Phủ, yêu cầu khai thác ý nghĩa nhân đạo toát ra từ tình huống truyện này. Cụ thể:

    a) Qua diễn biến tâm lý của Mỵ có thể thấy vợt lên hoàn cảnh, tình huống để cuối cùng Mỵ quyết định cởi trói cứu A Phủ là tình thương người của Mỵ, là sự đồng cảm của những người cùng cảnh ngộ. Tô Hoài đã đề cao phẩm chất của Mỵ như một giá trị tinh thần, đó là lòng "Thương người như thể thương thân" trong truyền thống của người Việt.

    b) Ca ngợi khát vọng tự do, khát vọng sống cho mình và cho người khác ở nhân vật Mỵ là sức mạnh để Mỵ cứu thoát A Phủ và cứu cả chính mình. Khát vọng và tiềm năng, sức sống của Mỵ là vẻ đẹp trong tâm hồn, trong tính cách của người con gái H'Mông Tây Bắc.

    c) Khẳng định một chân lý đơn giản mà sâu sắc: Trong xã hội cũ, chỉ bằng tình thương người không thôi thì chưa đủ để giải phóng cho họ. Tình thương người nghèo khổ bị áp bức phải được thể hiện qua sức mạnh, qua hành động để cứu giúp họ, giải thoát cho họ. Chính vì vậy, sang phần hai của truyện ngắn, cuối tác phẩm Mỵ và A Phủ đã là những chiến sĩ du kích trong phong trào giải phóng Phiềng Sa, giải phóng Tây Bắc.

BÀI 2: VỢ NHẶT (KIM LÂN)

1.  Xuất xứ:

Truyện Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – tác phẩm được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và bị mất bản thảo. Hoà bình lập lại (1954), dựa trên một phần cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết truyện Vợ nhặt. Tác phẩm được in trong tập Con chó xấu xí (1962).

2. Tóm tắt:

Truyện lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Tràng - một thanh niên nghèo, lại là dân ngụ cư, trong một lần đẩy hàng đã tình cờ có được vợ. Cô vợ nhặt đã tình nguyện theo Tràng chỉ sau một câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng đưa “thị” về giữa cảnh đói khát đang tràn đến xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ thấy con có vợ thì vừa mừng vừa tủi cho thân phận nghèo khó của mình và thương con, thương nàng dâu đói khổ. Họ sống với nhau trong cảnh đói nghèo nhưng hạnh phúc và tin rằng: Việt Minh về làng, họ sẽ đi phá kho thóc Nhật, lấy lại thóc gạo để cứu sống mình.

3. Ý nghĩa nhan đề:

- Nhan đề tạo ấn tượng, kích thích sự chú ý của người đọc. Thông thường, người ta có thể nhặt thứ này, thứ khác, chứ không ai “nhặt vợ”. Bởi dựng vợ gả chồng là việc lớn, thiêng liêng, có ăn hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, không thể qua quýt, coi như trò đùa.

- “Vợ nhặt” là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. Vì đúng là anh Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà có người đã theo về làm vợ. Điều này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng liêng trở thành

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net