Phân mảnh

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Phân mảnh ngoại (external fragmentation): là hiện tượng khi kích thước
không gian nhớ còn trống đủ để thỏa mãn yêu cầu cấp phát nhưng không
gian nhớ này lại không liên tục.
Hiện tượng phân mảnh ngoại xảy ra khi bạn thường xuyên cấp phát vùng
nhớ mới, sau đó xóa đi những phần vùng nhớ đã cấp phát một cách không
thứ tự.
-
Phân mảnh nội (internal fragmentation): là hiện tượng sẽ có vùng nhớ dư
thừa khi ta cấp phát một vùng nhớ hơi lớn hơn kích thước yêu cầu.
Ví dụ: Cấp một khoảng trống 18,464 bytes cho một process yêu cầu 18,462 bytes
Hiện tượng phân mảnh nội thường xảy ra khi bộ nhớ thực được chia thành
các khối kích thước cố định (fixed-sized block) và các process được cấp
phát theo đơn vị khối.

Phân trang là cơ chế quản lý bộ nhớ cho phép không gian địa chỉ vật lý của quá trình là không kề nhau. Phân trang tránh vấn đề đặt vừa khít nhóm bộ nhớ có kích thước thay đổi vào vùng lưu trữ phụ (backing store) mà hầu hết các cơ chế quản lý bộ nhớ trước đó gặp phải. Khi phân đoạn mã và dữ liệu nằm trong bộ nhớ được hoán vị ra, không gian phải được tìm thấy trên vùng lưu trữ phụ.

     Bộ nhớ vật lý được chia thành các khối có kích thước cố định gọi là các khung (frames). Bộ nhớ luận lý cũng được chia thành các khối có cùng kích thước gọi là các trang (pages). Khi một quá trình được thực thi, các trang của nó được nạp vào các khung bộ nhớ sẵn dùng từ vùng lưu trữ phụ. Vùng lưu trữ phụ được chia thành các khối có kích thước cố định và có cùng kích thước như các khung bộ nhớ.
     Phân trang là một dạng của tái định vị động. Mỗi địa chỉ luận lý được giới hạn bởi phần cứng phân trang tới địa chỉ vật lý. Sử dụng phân trang tương tự sử dụng một bảng các thanh ghi nền (hay tái định vị), một thanh ghi cho mỗi khung bộ nhớ. 
     Một khía cạnh quan trọng của phân trang là sự phân chia rõ ràng giữa tầm nhìn bộ nhớ của người dùng và bộ nhớ vật lý thực sự. Chương trình người dùng nhìn bộ nhớ như một không gian liên tục, chứa chỉ một chương trình. Sự thật, chương trình người dùng được phân bố khắp bộ nhớ vật lý và nó cũng quản lý các quá trình khác. Sự khác nhau giữa tầm nhìn bộ nhớ của người dùng và bộ nhớ vật lý thực sự được làm cho tương thích bởi phần cứng dịch địa chỉ. Địa chỉ luận lý được dịch thành địa chỉ vật lý. Ánh xạ này được che giấu từ người dùng và được điều khiển bởi hệ điều hành.
     Như vậy, quá trình người dùng không thể truy xuất bộ nhớ mà nó không sở hữu. Không có cách định địa chỉ bộ nhớ bên ngoài bảng trang của nó và bảng chỉ chứa những trang mà quá trình sở hữu.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net

Ẩn QC