Kiến thức cơ bản: BẾP LỬA - Bằng Việt

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

I. TÌM HIỂU CHUNG

1. Tác giả: Bằng Việt (1941)

- Tên khai sinh: Nguyễn Việt Bằng.

- Quê quán: Huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).

- Ông làm thơ từ đầu những năm 60 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.

- Hiện nay, ông là Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội.

2. Tác phẩm:

- Thể loại: Tám chữ (Hiện đại).

- Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành Luật ở nước ngoài (Liên Xô).

- Xuất xứ: Được đưa vào tập "Hương cây - Bếp lửa" (1968), tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.

- Chủ đề: Tình cảm gia đình (tình bà cháu), uống nước nhớ nguồn - ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời kháng chiến.

- Ý nghĩa nhan đề: Bếp lửa là hình ảnh quen thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam. Ở đây, bếp lửa chính là hình ảnh biểu tượng cho tấm lòng yêu thương của bà, cho nên nhớ đến bếp lửa là lại nhớ đến bà, nhớ về quê hương, đất nước.

- Bố cục:

+ Phần 1 (Khổ 1): Hình ảnh khơi nguồn kỷ niệm.

+ Phần 2 (Khổ 2 + 3 + 4 + 5 + 6): Ký ức của tuổi thơ bên bà.

+ Phần 3 (Còn lại): Nỗi nhớ về bà khi cháu đã trưởng thành.

II. PHÂN TÍCH

1. Mở bài:

- Tuổi thơ, nơi mà có lẽ bất cứ ai khi mệt mỏi với cuộc sống bộn bề đều bất giác nghĩ đến như nơi bình yên nhất của góc nhỏ trong tim, nơi có mẹ có cha, có bạn bè với những hồi ức ngọt ngào và chính kí ức ấy đã trở thành nguồn đề tài bất tận cho các thi sĩ đào sâu cày xới. 

- Nếu như Đỗ Trung Quân nhớ về quê hương với kỉ niệm với chùm khế ngọt trèo hái mỗi ngày, Xuân Quỳnh nhớ bồi hồi sau khi bắt gặp một tiếng gà trưa khi dừng chân bên xóm nhỏ thì Bằng Việt lại nhớ về bếp lửa với hình ảnh người bà thân thương. 

- Đó chính là khởi nguồn để Bằng Việt cho ra đời tác phẩm mang tên "Bếp lửa", tác phẩm chính là chuyến tàu đưa tác giả trở về với những kí ức tuổi thơ êm đềm.

2.Thân bài:

a. Giới thiệu chung về tác giả và tác phẩm:

- Tác phẩm "Bếp lửa" đã được sáng tác vào năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên ngành luật học tại nước ngoài, cụ thể là Liên Xô. Tác phẩm sau này đã được đưa vào tập thơ "Hương cây - Bếp lửa" được sáng tác vào năm 1968, tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.

- Bằng Việt đã đưa độc giả đi từ những hồi tưởng đến từ hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm, bộc lộ tình yêu thương của ông với người bà của mình ở quê nhà.

b. Phân tích và chứng minh:

Luận điểm 1: Hình ảnh "bếp lửa" khơi gợi dòng hồi tưởng.

- Mở đầu bài thơ là hình ảnh "bếp lửa" khơi nguồn cho dòng hồi tưởng về người bà, về bàn tay khéo léo, kiên trì nhóm lửa với tấm lòng đôn hậu, ấm áp.

"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa"

- "Một bếp lửa chờn vờn" ẩn hiện leo lét trong một màn sương sớm của buổi sớm bình minh. "Một bếp lửa ấp iu" gợi ta cảm giác ấm áp, iu thương. Chính điệp ngữ "Một bếp lửa" kết hợp cùng từ láy gợi tả "chờn vờn", "ấp iu" đã giúp ta cảm nhận được hình ảnh bếp lửa một thời khó khăn, thiếu thốn nhưng vẫn luôn ấm áp, yêu thương.

- "Biết mấy nắng mưa" đã ẩn dụ cho cuộc đời nhọc nhằn của người bà trong những năm qua. Chữ "thương" đã thể hiện sự thấu hiểu, yêu thương, chia sẻ với những vất vả của cuộc đời bà. Hình ảnh người bà luôn gắn liền với cái bếp lửa yêu thương. Một vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.

Luận điểm 2: Chuỗi hồi ức về bà và bếp lửa của tác giả.

*Kỉ niệm năm lên bốn tuổi - Nạn đói năm 1945:

- Hình ảnh bếp lửa vẫn luôn cháy sáng là biểu tượng của niềm hi vọng, xua đi cái đói và ám ảnh của cái chết.

"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc người gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!"

- "Đói mòn đói mỏi", thành ngữ chỉ cái đói làm hao mòn kiệt quệ, bòn rút sức lực. Cái nạn đói ám ảnh của người dân Việt Nam lúc bấy giờ, nạn đói năm 1945. Cái đói lúc ấy đã bao trùm lấy tất cả mọi thứ, con người cũng thiếu ăn thiếu mặc "khô rạc" huống chi là con ngựa "gầy". Những tháng này cơ cực, đen tối của những người nông dân Việt Nam.

- Ký ức sâu đậm nhất của đứa trẻ khi ấy là "khói hun nhèm mắt", "sống mũi còn cay". Nó đã trở thành một nỗi ám ảnh gắn liền với khổ sở và cực nhọc. Đọc đến những câu thơ này, ta có thể cảm nhận nỗi đau xót, xúc động của người cháu đồng hiện ở quá khứ và hiện tại khi nhớ về tuổi thơ gian khổ.

*Tám năm ròng cháu ở cùng bà - Tám năm kháng chiến chống Pháp:

- Tám năm kháng chiến chống Pháp, cháu chỉ ở cùng bà. Bà vừa là bà, vừa là sự kết hợp cao quý của công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy. 

"Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?"

- "Tiếng tu hú" đã được tác giả cho lặp đi lặp lại bốn lần nhằm thể hiện sự gắn bó với câu chuyện của bà kể về xứ Huế mộng mơ, làm cho đời sống của hai bà cháu vơi bớt phần nào sự trống trãi, cô độc, buồn tủi đồng thời tại chút niềm vui tuổi thơ. Người bà khí ấy đã bồi đắp đời sống tâm hồn của cháu, dạy cho cháu về tình yêu quê hương, đất nước.

- Hình ảnh người bà đã được thể hiện qua các động từ "bà bảo, bà dạy, bà chăm". Sở dĩ bà phải bảo như người cha, dạy như người thầy, chăm như người mẹ là vì "Mẹ cùng cha công tác bận không về". Qua đó cũng diễn tả sâu sắc tấm lòng bao la, chăm chút, nâng niu và lo lắng, dạy dỗ, vun đắp cho quá trình hình thành đời sống tâm hồn, trí tuệ của cháu mình.

- "Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc" là hiện thân của hơi ấm tình thương, nguồn sống và nguồn ánh áng dẫn dắt cháu trên con đường đời và con đường hình thành nhân cách bản thân.

- Bằng hình thức trò chuyện tâm tình, thủ thỉ làm lời thơ trở nên tha thiết, câu hỏi tu từ cuối bài gợi nỗi nhớ khoắt khoải khôn nguôi. Qua đó cũng khiến ta cảm nhân được hình ảnh người cháu dần trưởng thành qua từng năm tháng. Người cháu giờ đây đã bắt đầu biết thương bà, hiểu được những vất vả, khó nhọc của người bà phải trải qua trong cuộc đời. Đứa cháu mong muốn con chim tu hú "đến ở" cùng người bà, nó như một người bạn tinh thần cho hai bà cháu.

*Năm giặc đốt làng:

- Người bà là hội tụ những phẩm chất cao quý của một "Bà mẹ Việt Nam anh hùng", là một "Anh hùng bất khuất, trung hậu đảm đang" (Hồ Chí Minh).

"Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều trang
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!""

- Kỷ niệm buồn nhất, thử thách gian nan nhất trong ký ức tuổi thơ của cháu có lẽ là cái năm "giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi". Một cuộc sống bỗng chốc trở nên tan hoang, tiêu điều dưới ngọn lửa hung ác của kẻ thu. Mọi người chỉ có thể "trở về lầm lụi" chứ chẳng thể làm gì hơn nữa!

- Nhưng trái ngược với hoàn cảnh éo le ấy là hình ảnh người bà kiên cường, vững vàng trước những sóng gió gian khổ. Song song với tình yêu thương, đức hy sinh và lòng vị tha của một người mẹ, bà còn có một tình yêu đất nước lớn lao, sẵn sàng hy sinh vì một tổ quốc độc lập hòa bình.

*Những suy ngẫm về cuộc đời của bà:

- Từ hình ảnh bếp lửa để gợi về bà, ngọn lửa đã trở thành một biểu tượng bình dị và trọn vẹn về con người Việt Nam trong kháng chiến tỏa sáng lấp lánh.

"Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng..."

- Công việc nhóm bếp lửa cứ lặp đi lặp lại, một công việc đã trở nên quen thuộc mà dường như chẳng thể thiếu trong cuộc sống của hai bà cháu.

- "Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn", "Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng", bà không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người truyền lửa cho các thế hệ mai sau. Đó là ngọn lửa của tình yêu thương và ngọn lửa của niềm tin vào cuộc cách mạng của dân tộc.

"Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chug vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!"

- Bà đã luôn tần tảo, vất vả, cực nhọc, hi sinh bản thân để chăm lo cho gia đình, đồng thời bà cũng vẫn luôn ủng hộ cách mạng của dân tộc.

- Điệp từ "nhóm" đã hiện lên với hai lớp nghĩa. Đối với nghĩa tả thực (bút pháp thường thấy của các tác giả phát triển trong nền văn học hiện đại), "nhóm lửa" trong gian bếp giữ cho bữa cơm gia đình, mái ấm gia đình ấm áp, yêu thương. Còn ở nghĩa ẩn dụ, nó là một tình yêu thương ruột thịt, nhóm tình đoàn kết chia sẻ giữa những làng xóm, nhóm cả những tâm tình tuổi nhỏ, ước mơ và một niềm tin dai dẳng. Cái bếp lửa ấy không chỉ nuôi cháu lớn lên mà còn dạy cho cháu bao điều hay lẽ phải ở đời. Lòng kính trọng, nể phục và biết ơn của cháu đối với bà.

- "Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!". "Kì lạ" vì không có gì có thể dập tắt được bếp lửa, bếp lửa vẫn cứ cháy lên trong mọi hoàn cảnh. Còn "thiêng liêng" thể hiện cho bếp lửa là một tổ ấm, là cội nguồn gia đình, là cội nguồn quê hương đất nước.

- Bếp lửa đã nhen nhóm lên từ ngọn lửa trong lòng bà. Từ ngọn lửa, cháu nhận ra cả một niềm tin dai dẳng về ngày mai, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc: vất vả, gian lao mà nghĩa tình.

Luận điểm 3: Nỗi nhớ về bà khi cháu đã trưởng thành.

- Kết thúc cả bài thơ là khổ thơ chứa đạo lí thủy chung, biết của người Việt Nam: "Uống nước nhớ nguồn", đạo lí nuôi dưỡng tâm hồn ta để chắp cánh ước mơ cho mỗi người.

"Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa? ..."

- Hình ảnh "bếp lửa" vẫn luôn hiện lên xuyên suốt bài thơ nhằm thể hiện nỗi nhớ về bà dâng trào mãnh liệt trong lòng tác giả.

- Điệp từ "trăm" giúp hiện lên trước mắt ta một không gian tiện nghi, đông vui, khái quát khẳng định cháu đã lớn và trưởng thành.

- Nhưng trong tâm trí cháu, bóng dáng của bà và bếp lửa luôn hiện diện ở bất cứ đâu, bất kì thời điểm nào trong mắt tác giả.

- Bằng câu hỏi tu từ kết thúc cả bài thơ cùng dấu chấm lửng nghệ thuật "- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa? ..." đã mở ra một nỗi nhớ da diết về gia đình, về bà, về quê hương và đất nước.

- Qua khổ thơ này, ta lại càng cảm nhận rõ đạo lí "uống nước nhớ nguồn", ân nghĩa thủy chung cùng qua khứ mà tác giả muốn gửi gắm chúng ta qua từng câu chữ trong bài thơ!

c. Liên hệ mở rộng: (Bổ sung sau)

d. Đánh giá - Nhận xét chung:

- Bằng việc sử dụng hình ảnh "Bếp lửa" Bằng Việt đã khơi gợi những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà và cũng là với gia đình.

- Bài thơ đã được Bằng Việt kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận.

- Để tạo nên sự thành công của tác phẩm, ta phải kể đến sự sáng tạo đối với hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu.

3. Kết bài:

- Khép lại những câu thơ cuối cùng của thi phẩm "Bếp lửa", bài thơ đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng sâu sắc về sự hi sinh của người bà tần tảo vè tình cảm gia đình giữa cháu với bà. Bằng Việt đã chắt lọc từ cuộc đời những kỉ niệm, những hình ảnh đẹp nhất về người bà thân yêu để dệt nên hình tượng cảu "bếp lửa".

- Ta chợt nhận ra rằng, trong sâu thẳm mỗi con người, luôn có những điều thật bình dị và thân thương. Hãy trân trọng những kí ức trong trẻo, mượt mà một thời ấy, vì đó là chốn bình yên để ta tìm về khi đã mỏi cánh bay, là hành trang quý báu để ta mang theo suốt cuộc hành trình dài và rộng của cuộc đời. Để một ngày nào đó dừng lại giữa dòng đời bất tận, ta mỉm cười vì luôn có một "bếp lửa" soi sáng trong tim.

III. CHÚ THÍCH

- Đinh ninh: ở đây có nghĩa là nhắc đi nhắc lại cho người khác nắm chắc, nhớ chắc.

- Chiến khu: vùng căn cứ của lực lượng cách mạng hay lực lượng kháng chiến.

IV. GHI NHỚ

- Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ "Bếp lửa" gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước.

- Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận. Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu.

V. NỘI DUNG LIÊN HỆ

- Trong cuộc sống, con người ta luôn có lúc gặp phải những gian lap, trắc trở. Chính trong những năm tháng khó khăn, gian khổ ấy, chúng ta sẽ nhận ra được những giá trị tinh thần vô cùng thiêng liêng và đáng quý. Những giá trị ấy, những kỉ niệm ấy sẽ tạo nên sức mạnh đỡ bước chân ta trong suốt cuộc đời dài. Bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt đã soi sáng chân lí giản đơn ấy. Hình ảnh "bếp lửa" đã khơi nguồn hồi tưởng của tác giả những năm tháng sống bên bà, cùng bà nhóm lên ngọn lửa nồng ấm của tuổi thơ, để người đọc biết bao thế hệ cùng rung cảm với một bản trường ca về tình bà cháu.

- Với "Bếp lửa", Bằng Việt đã chắt lọc từ cuộc đời những kỉ niệm, những hình ảnh đẹp nhất về người bà thân yêu để dệt nên hình tượng "bếp lửa", thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đát nước. Ta chợt nhận ra rằng, trong sâu thẳm mỗi con người, luôn có những điều thật bình dị và thân thương. Hãy trân trọng những kí ức trong trẻo, mượt mà một thời ấy, vì đó là chốn bình yên để ta tình về khi đã mỏi cánh bay, là hành trang quý báu để ta mang theo suốt cuộc hành trình dài và rộng của cuộc đời. Để một ngày nào đó dừng lại giữa dòng đời bất tận, ta mỉm cười vì luôn có một "bếp lửa" soi sáng trong tim.

- Văn học ra đời giữa những buồn vui của loài người và sẽ làm bạn với con người cho đến ngày tận thế. Mỗi tác phẩm nghệ thuật chân chính giống như thứ khí giới thanh cao mà đắc lực mà chúng ta có để thay đổi thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người trong sạch và phong phú hơn. Văn chương trao truyền những tình cảm, cảm xúc tươi đẹp, trong trẻo cho tâm hồn con người hướng đến vẻ đẹp của chân thiện mĩ. Chính vì thế mà văn chương giống như suối nguồn lai tạo sự sống cho tâm hồn mỗi người. Những trang văn câu thơ bồi đắp thêm cho ta những tình cảm ta sẵn có và làm giàu thêm những tình cảm ta chưa có. Bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt là một bài thơ như thế. Cũng viết về những tình cảm muôn thuở của loài người đó là tình bà cháu, tình yêu quê hương, đất nước ta đã gặp trong thơ ca dân gian, trong những trang văn tuyệt đẹp của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông quê hương, những câu hát và cảnh xứ non sông, những câu tục ngữ về tình bà cháu thiêng liêng: "Ngó lên nạt luộc mái nhà/Bao nhiêu nạt luộc nhớ ông bà bấy nhiêu." Nhưng tìm đến những câu thơ của Bằng Việt không hiểu sao vẫn rung động hồn ta bởi những nỗi băn khoăn riêng, vẫn ám ảnh và đầy dư ba về sự hi sinh của người bà tần tảo và tình cháu yêu bà.- Bếp lửa được nhen lên từ ngọn lửa thiêng liêng trong lòng bà. Từ ngọn lửa, cháu nhận ra cả một niềm tin dai dẳng về ngày mai, cháu hiểu được linh hồn một dân tộc: vất vả gian lao mà nghĩa tình. Bà không chỉ nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa.

- "Anh hùng bất khuất, trung hậu đảm đang" (Hồ Chí Minh).

-"Ở Bằng Việt, cái sôi nổi, rạo rực của tuổi trẻ vừa như được nén lại, đồng thời lại được nêu lên bởi suy nghĩ... Một tâm hồn nhiều suy nghĩ, rung động tinh tế, một chủ nghĩa trữ tình xao động, bồi hồi, khi đậm đà, duyên dáng, khi âm vang, sâu thẳm." (Lê Đình Kỵ).

- Bếp Lửa của Bằng Việt khiến cho nhiều người đọc đều cảm thấy ngậm ngùi và cảm động, nhớ lại những hình ảnh đẹp mà tác giả gợi mở. Trần Quang Quý đã từng nhận xét rằng: "Chất thơ hào hoa mà đằm thắm, tinh xảo mà hồn nhiên, hào sảng mà tươi tắn, tươi mới mà quyến rũ, ấm cúng và trí tuệ" chính là nguồn nhiệt năng tỏa sáng từ "Bếp lửa" đến với những trang thơ ngày này của Bằng Việt."

 - Qua hồi tưởng và suy ngẫm củ người cháu, bài thơ Bếp lửa gợi lại những kỷ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm và miêu tả, tự sự và bình luận. Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh của người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỷ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu.

– Bài thơ Bếp lửa biểu hiện một triết lý thầm kín: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người, đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của cuộc đời. 

– "Có thể là bài thơ còn thiếu cái này cái nọ, nhưng phải nhận rằng, "Bếp lửa" là một bài thơ có nguồn cội, chứ không chơi vơi nửa vời..."

- Mỗi nhà thơ lại có những phong cách riêng với nét đặc trưng trong chất thơ. Với Bằng Việt, chất thơ ấy chính là chất suy tưởng giàu tính trí tuệ và rất hào hoa. 

- "Lời thơ như những nét chấm phá tươi mát nhưng không thiếu chiều sâu suy tưởng", " thơ Bằng Việt thường nghiêng về suy nghĩ, có dáng một lời tâm sự" (Nguyễn Xuân Nam).

- "Ở Bằng Việt sự suy nghĩ có tình có nghĩa được bộc lộ nhất quán có sự nhất quán trong thơ anh" (Hồng Thọ).

- "Vào những năm đầu thập kỷ 60, Bằng Việt xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam như một ánh đèn nê-ông kỳ ảo, tỏa sáng trí tuệ, sự mát mẻ của tuổi xuân và cái dịu dàng của hồn thơ anh. Vời những câu thơ xúc cảm tinh tế, chữ nghĩa long lánh, độc giả ấn tượng về anh như một nhà thơ trẻ lịch lãm, tài hoa" (Phạm Khải)

- "Trong số các nhà thơ trẻ, Bằng Việt là một hồn thơ lãng mạn, đọng nhiều suy nghĩ" (Hà Minh Đức)

- Thơ Bằng Việt đã thể hiện một một cái tôi trữ tình độc đáo, giàu sáng tạo. Hồn thơ đôn hậu, nhạy cảm, rất sang trọng, giàu chất trí tuệ, ưa khái quát, triết lí của Bằng Việt đã bộc lộ được phong cách riêng của ông trước rất nhiều các nhà thơ của thế hệ kháng chiến chống Mỹ.

- "Bếp lửa" là sáng tác đầu tay của Bằng Việt khi nhà thơ đang là du học sinh ngành Luật tại Liên Xô. Xa quê hương, xa làng xóm, xa gia đình, Bằng Việt chưa lúc nào quên được những kỷ niệm của một thời thơ ấu bên người bà mà hình ảnh bếp lửa đã để lại trong tâm thức người thanh niên hai mươi tuổi một ấn tượng quá sâu đậm. Bởi lẽ nó tượng trưng cho tình bà cháu thiêng liêng, cao quý mà nhà thơ luôn ấp ủ trong suốt quãng thời gian xa nhà. Có chăng thứ tình cảm giản dị ấy đã trở thành nguồn cảm hứng mãnh liệt, thôi thúc Bằng Việt cầm bút viết nên những câu thơ thật cảm động về tình bà cháu với những kỷ niệm tuổi thơ cháy bập bùng bên bếp lửa. Có lẽ vì vậy mà khi nói về "Bếp lửa", có nhận định cho rằng: "Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ biểu hiện một triết lý sâu sắc: Những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net