Phần thứ nhứt ― CHƯƠNG THỨ NHỨT

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

TƯ-TƯỞNG LÀ GÌ ?

‹‹ Thông-minh là biết nhận thấy

sự liên-quan giữa sự-vật. ››

A. ― Tư-tưởng là gì ?

HUỆ-TỬ nói việc gì cũng hay thí-dụ. Có người bảo với vua nước Lương : ‹‹ Nếu nhà vua không cho thí-dụ, thì Huệ-Tử không nói gì được nữa. ››

Hôm sau vua đến thăm Huệ-Tử : ‹‹ Xin tiên-sinh nói việc gì cứ nói thẳng, đừng thí-dụ nữa. ››

Huệ-Tử nói : ‹‹ Nay có một người ở đây không biết nỏ là cái gì, mới hỏi hình-trạng cái nỏ thế nào. Nếu tôi đáp rằng : Hình-trạng cái nỏ như cái nỏ, thì người ấy có hiểu không ?. ››

Vua nói : ‹‹ Hiểu làm sao được ?. ››

Huệ-Tử nói : ‹‹ Thế nếu tôi bảo người ấy : hình-trạng cái nỏ giống như cái cung có cán, có lãy, thì người ấy có biết được không ?. ››

Vua nói : ‹‹ Biết được. ››

Huệ-Tử nói : ‹‹ Khi nói với ai, là đem cái người ta đã biết làm thí-dụ với cái người ta chưa biết, để khiến người ta biết. Nay nhà vua bảo tôi đừng thí-dụ nữa thì không được. ››

Một đứa trẻ đi vào vườn Bách-thú, thấy cọp, beo, voi, gấu... Nó sẽ đam những loài thú rừng ấy sắp vào hạng-loại rất hạn-định như chó, mèo, heo, ngựa... mà nó đã biết trước thôi. Bởi vậy, gặp cọp, nó nói : con chó lớn. Còn gặp con gì cao mà chơn dài, nó đều gọi là ngựa cả...

Trái lại, nhà động-vật-học đem những loài thú rừng ấy sắp vào hạng-loại cực-kỳ tinh-tế hơn.

Dầu sao, cách phán-đoán của hai đàng, cũng cùng một cách-thức như nhau : đam vật mình chưa biết sắp vào hạng-loại mình đã biết. Vì thế, người học hỏi sâu rộng, thường có được những phán-đoán tinh-vi đúng-đắn hơn kẻ học nông thấy hẹp.

Như ta đã thấy, trong quyển Óc Sáng-Suốt [3], sở-dĩ ta biết được một điều gì, là nhờ so-sánh với những điều cùng một loại với nó mà ta đã có thấy, có hiểu trước.

Bởi vậy, khi ta nói : Trái đất tròn, là tại ta thấy trái đất có hình giống như viên-đạn mà ta đã biết trước. Ta đem trái đất sắp vào một hạng-loại với viên-đạn, và bởi viên-đạn hình tròn mà trái đất lại như hình viên đạn, ta mới quyết-đoán : trái đất tròn.

Bất-kỳ là ở vào lúc nào, mỗi một người của chúng ta đều có sẵn trong đầu một mớ ít khái-niệm như thế, nghĩa là một mớ hạng-loại (catégorie) đã biết trước. Nếu có một sự-vật nào hiện ra trước mắt, ta liền tìm cách đem nó sắp vào hạng-loại ta đã biết qua một lần... Hễ làm được là ta tư-tưởng đấy, ta hiểu-biết đấy. Bằng không, ta chỉ có cảm qua thôi, chớ không tư-tưởng gì cả.

Tư-tưởng là phán-đoán, mà phán-đoán là nhận-thứcquyết-định được sự liên-lạc giữa hai tư-tưởng, hai sự-vật. Phán đoán là một sự sắp-đặt [4].

Phán-đoán mà được đầy-đủ rồi thì lẽ cố-nhiên ta tin nó đúng với sự thật. Khi ta bảo : ông X... vô-tội, ta tinquả-quyết rằng ông ấy có thật như thế.

Sự phán-đoán, bao giờ cũng đi tới cái mức cuối-cùng ấy, là quả-quyếttin-tưởng. Tuy-nhiên, cũng có khi sự phán-đoán không được đầy đủ, buộc phải dừng lại nửa chừng thôi. Như khi ta nghĩ : ‹‹ Trên các hành-tinh có lẽ cũng có sinh-vật ››, ta chỉ quan-niệm được sự liên-lạc giữa các hành-tinh và trái-đất ta đang ở đây mà nghĩ qua như thế thôi, chớ ta chưa dám quả-quyết và tin-tưởng việc ấy.

Phán-đoán mà quả-quyết là một việc làm của Ý-chí, vì quả-quyết là tự buộc một trách-nhiệm. Khi tôi bảo : ‹‹ Ông X vô tội ›› tôi tự hẹn thầm ba điều :

1. Trước hết, tôi tự hẹn không bao giờ nói trái lại điều tôi vừa nói đó. Những người vô-học thường hay thay-đổi ý-kiến của mình, hoặc bởi họ bị phản-đối, hoặc vì họ không có chủ-định gì cả, nên họ mâu-thuẫn với họ luôn-luôn.

2. Kế đó, tôi tự hẹn phải hành-động theo sự phán-đoán của tôi. Quả-quyết rằng : ‹‹ Ông Xoài vô tội ››, đó là tôi nhứt-định xem ông ấy là người vô tội, không khinh-bỉ, không ngờ-vực nữa.

3. Sau rốt, tôi tự hẹn, sẽ rán làm cho kẻ khác công-nhận phán-đoán của tôi. Thật vậy, quả-quyết cũng là một cách sai-khiến nữa mà là sai-khiến một cách phong-nhã, kín-đáo... Mỗi khi ta quả-quyết một ý-kiến hay một điều tin-tưởng nào, cố-nhiên là ta muốn cho kẻ khác cũng tán-đồng. Bởi vậy, tánh cố-chấp tuy là một tật xấu rất to, nhưng nó là một hiện-tượng rất tự-nhiên của tâm-lý. Phải có một hiểu-biết thật rộng, tư-cách thật cao mới có thể hiểu và dung được những tư-tưởng trái nghịch của kẻ khác, nghĩa là có thể hiểu được kẻ khác, mà không một lòng nào bực-dọc cả. Nhưng mà tin-tưởng thái-quá, lại thành ra Tín-ngưỡng.

B. ― Phán-đoán và Tín-ngưỡng

‹‹ Bất-kỳ là một ý-tưởng nào mà không gặp ý-tưởng khác phản-đối, thì được quả-quyết là thật ››.

Đó là định-lệ của sự tín-ngưỡng.

Những dân-tộc bán-khai, cùng là con trẻ hay đàn-bà nhẹ tánh, bất-kỳ là ai quả-quyết cái gì họ cũng tin theo. Đó là tại họ không biết có những tư-tưởng đối-đích, nghĩa là trái-nghịch lại. Chỉ có khi nào sự tin-tưởng của ta bị phản-đối – phản-đối mà ta không còn lý-lẽ nào bênh-vực được nữa – mới có thể làm cho ta không tin cái điều ta đã quả-quyết trước kia nữa mà thôi.

Đó là cái lẽ nó phải vậy. Nhưng sự thật ở đời, phần đông đã một khi tin-tưởng cái gì rồi, thì dẫu gặp phải những tư-tưởng đối-đích, họ cũng bỏ qua, và cứ giữ đức tin họ vững-vàng kiên-cố mãi. Là tại nhiều duyên-cớ, như sau đây :

1. Thị-Dục : [5]

Ta chỉ thừa-nhận những ý-kiến nào thuận với sự ta thèm-thuồng ao-ước mà thôi, không hề gì nó có đúng với sự thật hay không. Ở đây, cũng không có lý-lẽ nào vô đánh-đổ đức-tin của ta cho được.

Người mẹ quá yêu con không bao giờ chịu tin rằng con mình là một người dở-dang hèn-hạ, mặc dầu sự thật đã đam đến cho bà nhiều bằng-cứ xác-đáng. Bà ao-ước con bà là một người-tốt, cho nên, chỉ có những ai khen con bà, thì bà thích và nhận là thật mà thôi. Ngoài ra những tin gì có thể hại đến danh-giá con bà, thì bà loại ra một bên, không bao giờ ai đánh đổ được đức-tin của bà cả. Hoặc bà sẽ có lý-luận của bà để bênh-vực, để gột rửa sự ngờ-vực không tốt của bà.

Những người ham đi coi bói, thường thích những ông thầy bói nói họ sẽ làm giàu, làm quan, chỉ có nhiều phước đẹp duyên lành... Bao nhiêu lời nói vừa với lòng ao-ước của họ, là họ ghi nhớ, họ thừa-nhận đúng cả, mặc dầu họ không biết sẽ có thật được như thế không. Trái lại, những lời đoán sai với lòng ao-ước của họ, là họ không chịu tin, hoặc nửa tin nửa ngờ, có khi lại đam lòng oán-hận là khác.

Nếu sự ao-ước kia, lại thành một thị-dục (une passion) mãnh-liệt, nó sẽ xô đẩy người ta vào sự cuồng-tín (fanatisme) như chơi. Tỉ như lòng ái-quốc tăng đến cực-điểm, có thể làm cho người si-mê đến sát-nhân mà không biết gớm tay. Óc đảng-phái, óc tôn-giáo cũng một thế.

Người ta không dùng đến Lý-Trí nữa, mà chỉ tin những cái gì thuận với lòng mình ao-ước thôi, và tìm những lý-lẽ để bênh-vực nó.

2. Ảnh-hưởng xã-hội :

Một ý-tưởng nào mà được xã-hội đồng-thanh quả-quyết và tin-tưởng, thì khó lòng mà ta không cùng chia-xẻ được. Bởi vậy, phong-tục, tập-quán là những tin-tưởng mà ta nhắm mắt làm theo không suy-nghĩ gì cả. Người ta thường thấy trong xã-hội có những phong-trào tư-tưởng là thế.

Nói hẹp lại thời ảnh-hưởng gia-đình cũng không phải nhỏ. Hễ ông bà cha mẹ là người theo đạo Gia-Tô, thì con cháu cũng theo đạo Gia-Tô. Họ tin theo, là vì cả gia-đình hay dòng họ tin như thế. Họ đâu có suy-nghĩ chi nữa mà làm gì. Chung quanh họ, đều đồng-thinh quả-quyết và tin-tưởng một cách, lại không bao giờ gặp hoặc nghe có sự phản-đối, thảo nào họ không tin theo. Một ý-tưởng mà được đại-đa-số tín-ngưỡng, là một sức mạnh phi-thường, không có một lý-lẽ nào đánh đổ nổi.

Ảnh-hưởng xã-hội đối với tư-tưởng và hành-vi của chúng ta thật là mãnh-liệt vô cùng. Nó làm cho ta không còn biết suy-nghĩ là gì nữa. Những điều mà ta gọi là suy-nghĩ, toàn-thị là vô-tâm theo một cái chìu nào mà ta không làm chủ nữa được. Nó ám-ảnh đầu óc ta, nó sai-sử chỉ huy ta như một bộ máy. Sách-vở, báo-chí, những cuộc bàn-cãi, những tình-thế hưng-vong xảy ra trong thời buổi... tạo thành một luồng sóng đưa đẩy ta vào một khuynh-hướng nào... Những luồng sóng ấy có khi là kết-tinh của một tinh-thần sáng-suốt, thanh-cao ; lắm khi lại là cặn-bã của một dục-vọng, âm-u hèn-thấp cũng không chừng. Nhưng chắc-chắn, là nó sẽ đưa quần-chúng đi vào một con đường vinh-hiển hay bại-vong.

Những ý-tưởng do xã-hội hoàn-cảnh un-đúc thật là mạnh-mẽ một cách rõ-ràng, ai ai cũng có thể nhận thấy được. Mạnh-mẽ đến, hễ một cá-nhân nào bỏ hoàn-cảnh xã-hội của mình đi vào một hoàn-cảnh xã-hội khác, là đã thấy thay-đổi cả tư-duy chí-hướng của mình liền.

Một nhà hoàn-toàn thuộc về xã-hội cách-mạng, mà đến khi lên nắm chánh-quyền, liền thấy mình dễ-dàng trở nên một nhà rất trung-thành với phe bảo-thủ. Lịch-sử chỉ cho ta thấy rõ Napoléon khi lên ngôi, đam những tay thù-nghịch của chánh-thể quân-chủ mà ông chưa kịp đưa ra pháp-trường, phong hầu cả thảy một cách hết sức dễ-dàng, và những người ấy liền trở nên ‹‹ quân-chủ hơn đấng quân-chủ ›› nữa. [6]

Hoàn-cảnh xã-hội ảnh-hưởng ta, tuy mãnh-liệt như thế, nhưng không ảnh-hưởng sâu nặng bằng cái xã-hội của mình đang sống. Người ta phần đông suy-nghĩ phán-đoán toàn theo giai-cấp, phe-đảng, tôn-giáo hay nghiệp-đoàn của mình. Những điều họ cho là phải hay quấy đều là những điều mà nhóm xã-hội của họ cho như thế. Họ không cãi lại, hoặc không dám cãi lại. Họ tin-tưởng nó như một tín-điều thiêng-liêng bất-khả xâm-phạm. Thật vậy, nếu người nào không nhận những ý-tưởng của nhóm mình, thì không thể sống ở trong nhóm đó được nữa.

Một thị-dục mà được phần đông công-chúng hoan-nghênh thừa-nhận, sẽ là một tín-ngưỡng có một lực-lượng phi-thường. Đối với tín-ngưỡng của quần-chúng – dầu là tín-ngưỡng về chánh-trị hay tôn-giáo cũng vậy, – thời không thể còn dùng đến lý-luận đánh-đổ được nữa. Bởi vậy, tín-ngưỡng ấy là hiện-thân của một Dục-vọng không bờ-bến, như một cuồng-phong vô-cùng mãnh-liệt. Ảnh-hưởng của nó rất to-tát, vậy trước tình-thế nầy, ta phải biết nhẫn-nại mà chìu theo. Pascal nói : ‹‹ Tại sao ta lại phải chìu theo phần đông ? Đâu phải vì họ có lý hơn ta, mà chỉ vì họ mạnh hơn ta đó thôi. ››

Chìu theo họ, là để mà sửa-đổi họ, không phải để a-dua, nếu mình là một bực thức-giả.

3. Dốt-nát và Hoài-nghi :

Dốt-nát, cũng là một nguyên-nhân làm cho ta tin-tưởng một cách mê-muội.

Thật vậy, đã dốt-nát thì làm gì tìm thấy được những tư-tưởng đối-đích đánh-đổ sự quả-quyết và tin-tưởng của ta. Lẽ cố-nhiên là ta tín-ngưỡng một cách êm-đềm không phải có một cái chi đến lung-lạc đức-tin của ta cả. Một người dốt-nát làm gì biết đến những hiện-tượng của điện-khí là gì. Bởi vậy, họ tin trời đánh (sét đánh) là có lôi-công cầm búa đi tìm người gian-ngụy để giết chết. Đức tin ấy của họ, có làm gì gặp được những bằng-cứ đối-đích của khoa-học phản-đối. Cho nên họ vẫn yên-tâm mãi trong sự mê-tín của họ. Sự lầm-lạc của ta, một phần rất lớn, đều do nơi sự ngu-dốt của ta mà gây nên cả.

Muốn phá-hoại những tập-quán, thành-kiến đã ăn sâu vào trí-não con người, không có phương-pháp nào hay hơn là gợi sự ngờ-vực nghi-nan trong lòng người. Cái đó André Gide gọi là sự ‹‹ ngờ-vực phá-hoại ›› (le doute destructeur). Léon-Pierre-Quint trong quyển André Gide có câu : ‹‹ Không một tiếng kêu gọi lớn-lao, không một chút bạo-động nào cả, Gide chỉ dùng phương-pháp ‹‹ ngờ-vực phá-hoại ›› để lung-lạc đức-tin con người đối với cổ-tục chế-độ... Phản-đối một cách đột-ngột, hùng-hồn, không bằng khêu-gợi mối hoài-nghi trong lòng người. Những quyển sách có kết-luận đàng-hoàng, thời hỏng mất. Gide cho rằng, những tiểu-thuyết có luận-đề (roman à thèse) vì muốn chứng-giải mà thành ra mất cả sức mạnh của nó đi. Một quyển sách cần phải để lại nơi lòng người một mối nghi-ngờ không giải-quyết, một câu hỏi không có tiếng trả lời. Điều mà con người không thể nào chịu nổi là đối với điều mình tôn-sùng ngưỡng-mộ mà phải có sự ngờ-vực nghi-nan. Làm cho con người không sống đặng êm-đềm trong sự tin-tưởng của họ nữa, thời mới mong cải-cách được việc gì. ›› [7]

Socrate, với cái tài hùng-biện riêng của ông, chỉ hạch-hỏi mà thôi, gợi cho các đệ-tử một mối nghi-ngờ... để phá cái lòng mê-tín của họ. [8]

Phật, trong kinh Thủ-Lăng-Nghiêm cũng dùng một phương-pháp ấy để cảnh-tỉnh đệ-tử ruột của mình là A-Nan.

Phán-đoán thì tức nhiên phải quả-quyết.

Quả-quyết thì cố-nhiên là tin-tưởng, mà hễ tin-tưởng nhiều rồi, thời lại biến-thành Tín-Ngưỡng. Đó, là con đường tự-nhiên, ai ai cũng phải trải qua khi suy-nghĩ phán-đoán.

Tuy-nhiên, tín-ngưỡng cũng có nhiều thứ : Có thứ tín-ngưỡng mà mê-muội, có thứ tín-ngưỡng mà sáng-suốt.

Nếu biết đam óc phê-bình mà kiểm-tra những quyết-đoán của ta, thì sự tin-tưởng hay tín-ngưỡng của ta kia, được gọi là chánh-tín (croyance réfléchie). Nhược bằng, để cho thị-dục, xã-hội và sự ngu-dốt điều-khiển tư-tưởng ta, thì tín-ngưỡng của ta gọi là mê-tín.

Những tín-ngưỡng đem ra xem-xét châu-đáo, dùng lý-trí kiểm-tra lại, lấy thực-sự để đối-chứng : đó là những quyết-đoán có khoa-học, nghĩa là có phương-pháp và được kiểm-soát một cách vô-tư. Để tự-nhiên, thời người ta ai ai cũng tin-tưởng theo lòng ao-ước, theo thị-dục, hoặc theo xã-hội chung-quanh ám-thị.

Nếu có óc phê-bình, người ta sẽ không còn bị lôi-cuốn theo những lối tin-tưởng vu-vơ như thế nữa ; người ta sẽ tin khi nào đã lừa-lọc kiểm-điểm kỹ-lưỡng rồi, nghĩa là sau khi tìm được những tư-tưởng phản-nghịch mà cũng vẫn thấy nó có đủ lẽ đứng vững được nữa.

Goblot nói : ‹‹ Một tin-tưởng mà mình ao-ước hay ưa-thích, đó là nguồn gốc của sự lầm-lạc ›› [9]. Muốn ngừa sự lạc-lầm trong khi ta tư-tưởng hay phán-đoán, điều-kiện đầu hết là phải biết hoài-nghi. Hoài-nghi để khỏi phải sa vào cái bẫy của Tình-cảm và Ý-chí [10].

Ở đời phải có một lý-tưởng để làm phương-châm cho hành-động hằng ngày của mình. Ai ai cũng có quyền có tín-ngưỡng cả. Nhưng không nên đem những tín-ngưỡng của mình mà cho nó là những chân-lý khách-quan. Người, mà được gọi là có một cơ-sở triết-học và giáo-dục hoàn-toàn, là người biết dùng một cách đúng-đắn, không lầm-lẫn với nhau những câu nói nầy :

Tôi biết;

Tôi tưởng rằng tôi biết ; và

Tôi tin. [11]

Kẻ thiếu óc phê-bình, thiếu học-thức, là kẻ không đủ sức biết phân-biệt được cách dùng những tiếng nói trên đây. Điều mình tưởng là biết chưa phải là điều mình biết, mà điều mình tin chưa ắt là điều mình biết. Biết đâu mình tin là vì nó thuận với lòng ao-ước hay thị-dục của mình, hoặc vì mình bị ảnh-hưởng gia-đình, xã-hội chớ không phải vì đã dò xét rõ-ràng rồi mà tin, tin như nhà khoa-học.

Cổ-nhân có nói : ‹‹ Biết,thì biết là mình biết ; không biết, thì biết là mình không biết, mới thật là biếtvậy ›› (Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã.) [12]


[3] Cùng một tác-giả. Quyển thứ 10 loại sách ‹‹ Học Làm Người ››. – Nhà xuất-bản Phạm-Văn-Tươi.

[4] Mélinand

[5] Xem chương : Lý-luận của Tình-cảm (trong quyển nầy, chương thứ sáu, phần thứ nhứt).

[6] plus royaliste que le roi.

 [7] André Gide par Léon Pierre-Quint.

[8] La Méthode Socratique (Socrate par P. Landormy), trang 76.

[9] Traité de Logique, trang 382.

[10] Ý-chí đây, là chỉ lòng hăm-hở đam cái điều mình tin-tưởng mà buộc kẻ khác cùng nhận với mình.

[11] Psychologie et Metaphysique của Félicien Challaye, trang 536. ‹‹ Je sais ; je crois savoir ; je crois. ››

[12] Luận-ngữ.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net