Tiểu luận triết Đề tài tham khảo

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng
nếu đồng nhất hệ tư tưởng với văn hoá , bởi căn hoá có nội hàm rộng hơn nhiều so với hệ tư tưởng . Song , cũng phạm sai lầm nghiêm trọng nếu phủ nhận vai trò hệ tư tưởng đối với văn hoá , nhất là khi nói đến cả một nền văn hoá , cả một dòng văn hoá . C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ : “ Lịch sử tư tưởng chứng minh cái gì , nếu không phải là chứng minh rằng sản xuất tinh thần cũng biến đổi theo sản xuất vật chất ? Những tư tưởng thống trị cua tmột thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị”.

   Là hệ tư tưởng mang bản chất giai cấp ( công nhân ) như mọi hệ tư tưởng , nhưng khác với bất cứ hệ tư tưởng nào khác , chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết cách mạng và khoa học kết tinh những tinh hoa văn hoá nhân loại , hướng vào giải phóng toàn xã hội , giải phóng dân tộc , giải phóng con người , khắc phục triệt để tình trạng con người bị tha hoá , tạo điều kiện phát triển và không ngừng hoàn thiện con người . Chủ nghĩa cộng sản trong bản chất của nó như C. Mác nói , là “ chủ nghĩa nhân đạo hiện thực” . Nguyễn Ái Quốc đi từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc và những hiểu biết sâu sắc nhiều nền văn hoá lớn Đông Tây , đến với chủ nghĩa Mác - Lênin như một bước ngoặt quyết định hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh . Sự gặp gỡ thần kỳ này đã sản sinh ta một nhân cách , hơn thế , một mẫu hình văn hoá mới , mẫu hình “ văn hoá của tương lai” như nhà thơ Xô Viết Mandenxtam với một tình cảm đặc biệt đã sớm khám phá từ năm 1923 khi tiếp xúc với Bác . Như vậy , thật là chính xác và tự nhiên khi Nghị quyết Trung ương 5 nêu lên mục tiêu nền văn hóa tiên tiến là tất cả vì con người , vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú , tự do , toàn diện con người trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và cộng đồng , giữa xã hội và tự nhiên . Ở đâylà tính nhân văn cao cả , trong đó giai cấp , dân tộc và nhân loại , cá nhân và xã hội , xã hội và tự nhiên là thống nhất trên lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh - hệ tư tưởng thấu suốt nền văn hoá mà chúng ta xây dựng .

   Tính chất tiên tiến của nền văn hoá còn phảI thể hiện cả trong hình thức biểu hiện , trong những cơ sở vật chất kỹ thuật , phương tiện để chuyển tảI nội dung . Ví dụ : trong phong cách văn chương , trong công nghệ truyền hình , điẹn ảnh , trong kiểu dáng kiến trúc , trong thiết kế những công trình tượng đàI , những khu vui chơi giải trí , v.v... Ở đây , tiên tiến thường có nghĩa là hiện đại , song không phải đã là hiện đại thì loại trừ bản sắc dân tộc và càng không được nhầm lẫn hiện đại với “ chủ nghĩa hiện đại” tắc tị, bệnh hoạn , nhất là trong nghệ thuật , văn thơ .

b>. Nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc .

 Tính chất tiên tiến của nền văn hoá Việt Nam không tách rời bản sắc dân tộc.Nói đến văn hoá là nói đến dân tộc . Văn hoá bắt rễ sâu trong đời sống dân tộc qua trường kỳ lịch sử . Văn hoá là bộ mặt tinh thần của dân tộc . Bản sắc dân tộc của văn hoá , như người ta thường nói , là cái căn cước , cái chứng chỉ của một dân tộc . Nó chỉ rõ anh là ai , thiéu nó , anh không tồn tại như một giá trị . Lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước đã hun đúc cho dân tộc ta biết bao giá trị truyền thống tốt đẹp . Đó là chủ nghĩa yêu nước , lòng nhân ái bao dung , trọng nghĩa tình , đaọ lý , là tính cố kết , cộng đồng ... Nhờ sức mạnh những giá trị đó , dân tộc Việt Nam đã chiến thắng bao thử thách khắc nghiệt của thiên tai , địch hoạ để tồn tại và phát triển như ngày hôm nay . Bảo vệ và phát huy bản sắc dân tộc của văn hoá trước hết là bảo vệ và phát huy những giá trị tinh thần đó . Cố nhiên bản sắc dân tộc có cả nội dung và hình thức . Cùng với những giá trị tinh thần , bản sắc dân tộc của văn hoá còn được đặc trưng bởi các phương thức biểu hiện độc đáo . Đó là tiếng nói của dân tộc , là tâm lý , là phong tục tập quán , là cách cảm nghĩ của dân tộc , là những hình thức nghệ thuật truyền thống ,v.v... Nước ta có 54 dân tộc . Trong nền văn hóa đa dân tộc của nước ta , mỗi dân tộc anh em đều có bản sắc riêng của mình . Giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc của tất cả các dân tộc anh em sẽ phát huy sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam , tạo nên sự phong phú đa dạng trong tính thống nhất của nền văn hóa Việt Nam .

II /. Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc .

   Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc là chăm lo cho sự trường tồn và phát triển sức sống của dân tộc . Song đIều này khác hẳn xu hướng phục cổ như đã xảy ra gần đây ở nhiều nơI trong ma chay , cưới xin , lễ hội . Trong bàI nói tại Hội nghị cán bộ văn hóa ngày 30-10-1958 , Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ : “ Nói khôi phục vốn cũ , thì nên khôi phục cái gì tốt , còn cái gì không tôt thì phải loại dần ra . Xem ra thì năm nay tương đối khá , còn như năm ngoái , thì khôi phục vốn cũ , thì khôi phục cả đồng bóng , rước xách thần thánh . Vì khôi phục như thế , nên ở nông thôn nhiều nơi quên cả sản xuất , cứ trống mõ bì bõm , ca hát lu bù ...” . Trong vốn cổ dân tộc , chúng ta giữ lấy và phát huy những di sản nào , từ bỏ những di sản nào , điều đó không thể không đặt ra khi nói về những giá trị truyền thống . Sự cân nhắc và lựa chọn ấy thể hiện quá trình tự ý thức dân tộc , quá trình tự nhận thức , tự khám phá về mình xuất phát xuất phát từ tầm cao mới của lịch sử , là quá trình “ gạn đục khơi trong” và là sự tiếp nối dòng chảy liên tục của lịch sử dân tộc trong thế giới hiện đại . Với ý nghĩa đó , phát huy và bảo vệ bản sắc dân tộc của văn hoá đòi hỏi sự phát triển , sự sáng tạo không ngừng . Mệnh đề “ đậm đà bản sắc dân tộc” đó không thể tách rời mệnh đề “ văn hóa tiên tiến” và ngược lại .  

* Trong điều kiện thực hiện kinh tế thị trường mở rộng giao lưu quốc tế lại càng phải nhấn mạnh yêu cầu ra sức kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc . Đó không chỉ là ý thức trách nhiệm , mà còn là niềm tự hào , tự tôn dân tộc , bởi “ Nước Đại Việt ta từ trước , Vốn xưng nền văn hiến đã lâu” . Những đặc trưng nổi bật nhất của văn hóa Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước , yêu lao động , lòng nhân ái , vị tha và tính cộng đồng . Những giá trị truyền thống  đó đã từng là nguồn sức mạnh to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước . Ngày nay , bước vào thời kỳ công nghiệp hoá , hiện đại hoá , những truyền thống ấy vẫn đang là những đòi hỏi cần phải có đối với mọi người . Không phải bất cứ dân tộc nào trên hành tinh này cũng có được may mắn kế thừa những truyền thống và bản lĩnh văn hoá như vậy . Dân tộc Việt Nam có truyền thống tự tôn nhưng không tự cao , tự đại ; càng không đóng cửa để tự ngắm tự cô lập mình .

   Cũng như suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc , từ khi Đảng ta ra đời , phần lớn thời gian là phải lãnh đạo nhân dân tiến hành chiến tranh chống xâm lược , bảo vệ nền độc lập dân tộc . Thế nhưng , chúng ta chưa bao giờ chủ trương một thái độ bài ngoại về văn hoá , kể cả với nền văn hóa của nước đang là kể thù xâm lược . Trái lại , Đảng ta luôn nhấn mạnh tính dân tộc đồng thời với tính khoa học và đại chúng ; tính tiên tiến gắn với yêu cầu phải đậm đà bản sắc dân tộc . Đó chính là bản lĩnh văn hoá của Việt Nam . Nhờ đó , dù trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, đứng trước âm mưu đồng hoá văn hoá của đủ loại kẻ thù , nhưng “ Bốn nghìn năm ta lại là ta” ; bản sắc văn hóa Việt Nam không biến mất , không phai nhạt , trái lại , càng ánh lên nét riêng long lanh , đặc sắc . Nó đã góp cho nền văn hoá nhân loại không chỉ là trống đồng Đông Sơn , Truyện Kiều , các làn đIệu dân ca quan họ ... mà còn là những danh nhân văn hoá mà nổi bật là Hồ Chí Minh , một con người , một sự nghiệp , một giá trị văn hoá vừa đậm đà bản sắc Việt Nam , vừa chứa chan tính nhân loại . Và cả hai phẩm chất ấy đều ở đỉnh cao .

   Phải với một dân tộc có ý chí tự lập , tự cường và là lòng tự tôn mãnh liệt mới sản sinh ra những áng hùng văn Nam quốc sơn hà , Bình ngô đại cáo ... Phải với một dân tộc rất tự hào với truyền thống văn hóa của mình mới có thể tuyên thệ : “ Đánh cho để dài tóc , đánh cho để đen răng ... đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ” . Nền văn hoá ấy chính là khí phách , là tôm hồn dân tộc , là tài sản vô giá của đất nước và của mỗi con người Việt Nam . Nó là nồi cơm văn hoá Thạch Sanh không bao giờ vơi , được phân chia đến từng dòng sữa mẹ , từn lời ru những đứa con vừa lọt lòng mẹ của dân tộc , là trăm nghìn câu chuyện truyền từ  đời này qua đời khác . Chính nó là cội nguồn sâu lắng trong mỗi con người Việt Nam dù đến lúc có dư thừa các tiện nghi vật chất, nhưng vẫn ước mong được nghe các làn đIệu dân ca , được tắm hồn mình trong nền văn hoá dân tộc .

   Trong nền văn hóa có chiều sâu và tầm cao như vậy , càng đi vào kinh tế thị trường , mở rộng giao lưu quốc tế , đi vào công nghiệp hoá , hiện đại hoá , chúng ta càng phải nâng niu , gìn giữ và phát huy để góp phần vào sự nghiệp vẻ vang là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội . Chủ trương giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc không hề đồng nghĩa với bảo thủ , tự cô lập , đóng kín , khư khư bám giữ lấy cái cũ . Bản sắc văn hoá không phải là những giá trị tạm thời , nay còn mai mất ; song nó cũng không là cái không bao giờ thay đổi được và khôn gcần sửa đổi . Trái lại , bản sắc văn hóa dân tộc cũng không ngừng phát triển , đổi mới , phản ánh sự phát triển và đổi mới của dân tộc . Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy : “ Cái gì cũ mà xấu , thì phảI bỏ ... Cái gì cũ mà không xấu , nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý ... Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm” . 

                                                         *

Chương III : Bản sắc dân tộc trong quá trình phát triển của đất nước.

  I /. Vai trò của bản sắc văn hoá dân tộc trong nền kinh tế thị trường 

   Ngày nay , phát triển đang là vấn đề ưu tiên hàng đầu của mọi quốc gia , đồng thời cũng là thách thức hết sức gay gắt dối với toàn nhân loại . Cần phải huy động những nguồn lực nào để phát triển và phải làm gì để ngăn ngừa những tiêu cực phát sinh trong quá trình phát triển ,v.v... đang là những câu hỏi lớn đặt ra đối với nhiều quốc gia . Cho đến bây giờ , tuy còn có các ý kiến khác nhau trong việc định nghĩa văn hoá là gì , nhưng mọi người đều thống nhất trong sự thừa nhận về mối quan hệ qua lại của văn hoá với kinh tế , vai trò động lực của văn hoá đối với kinh tế . Những ý kiến coi văn hoá đứng ngoài kinh tế hay lệ thuộc một cách thụ động đối với kinh tế không còn được chấp nhận . Tuy nhiên , khi chúng ta nhấn mạnh yếu tố văn hoá thì đIều đó không có nghĩa là đặt vị trí của văn hoá cao hơn kinh tế , mà để thấy sự gắn bó của chúng trong khi hướng tới mục tiêu phát triển .

   Những thành tựu hoặc vấp váp trong quá trình phát triển kinh tế , xã hội ở nhiều nước trên thế giới đều chứng minh tầm quan trọng của nhân tố văn hoá , trước hết là ở việc có bảo vệ , phát triển được hay không những tiềm năng phong phú và đặc sắc của văn hóa dân tộc đối với sự phát triển của đất nước . Sự đúng đắn hay sai lạc trong định hướng phát triển văn hoá đều đưa đến thành tựu hay thất bại không riêng cho văn hoá , mà cho cả kinh tế và mọi mặt khác của đời sống xã hội , đặc biệt là về tư tưởng , đạo đức , lối sống . Những hậu quả của sự sai lầm về chính sách văn hoá thường kéo dài và khó sửa hơn những hậu quả về kinh tế . Do đó không phải không có cơ sở khi người ta lo ngại một sự “ phá sản” , “ xuống cấp” về văn hoá hơn sự phá sản , xuống cấp trong kinh tế , bởi những mất mát trong lĩnh vực văn hoá thường dẫn tới những hậu quả rất lâu dài và nghiêm trọng .

   Với điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như hiện nay , trong vòng vài ba chục năm , một dân tộc có thể vượt lên rất nhanh , chiếm lĩnh được những đỉnh cao về kinh tế , kỹ thuật , công nghệ . Nhưng để trở thành một quốc gia phát triển về văn hoá , thì vài ba chục năm hoàn toàn chưa thấm vào đâu . Một quốc gia giàu có về kinh tế , trong mười năm có thể đổi mới , nâng cấp toàn bộ hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật , nhưng để có được một cơ sở hạ tồng văn hoá tiến bộ và phát triển , thì còn khó gấp trăm lần và không thể chỉ bằng tiền mà giải quyết được .

   Đất nước ta đang thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện , thực hiện cơ chế thị trường và chính sánh đối ngoại rộng mở , làm bạn vớ tất cả các nước , phấn đấu vì hoà bình , độc lập và phát triển . Đối với nhiệm vụ xây dựng nền văn hoá , đây vừa là cơ hội lớn đồng thời là thách thức lớn .

   Chuyển sang nền kinh tế thị trường , văn hoá là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế , góp phần thay đổi nếp nghĩ , cách làm ; kích thích tính sáng tạo , năng động , nhưng trong môi trường đó văn hoá cũng có thể nhiễm phải những căn bệnhcủa kinh tế thị trường : chủ nghĩa cá nhân phát triển , sùng bái đồng tiền , lối sống tiêu thụ , thực dụng ... Không ít hoạt động văn hoá bị lôi cuốn vào xu hướng thương mại hoá , xuất hiện những sản phẩm văn hoá kém chất lượng chiều theo thị hiếu thấp kém của một bộ phận người có tiền . Đồng tiền xuất hiện với tư cách là thước đo các giá trị , nhưng đồng thời nó cũng trở thành sức mạnh có khả năng làm xuyên tạc mặt bản chất tốt đẹp của con người , của nhữn quan hệ xã hội , kích thích chủ nghĩa cá nhân , tính ích kỷ , nhiềt hủ tục , mê tín , dị đoan phát triển ... Đó là những nguy cơ cần phải kiên quyết bài trừ , khắc phục .

   Trong đời sống hằng ngày , chúng ta thấy nhiều sản phẩm văn hoá như tranh ảnh . sách , báo ... được đem ra mua bán trên thị trường , nhưng đIều đó không có nghĩa là mọi sản phẩm văn hoá đều phải tính toán , có lãi mới sản xuất . Trong nền kinh tế hàng hoá không thể không thừa nhận sự chi phối của quy luật giá trị trong lĩnh vực sản xuất tinh thần . Nhiều sản phẩm văn hóa cũng cần phải định giá , phải thông qua mua , bán , trao đổi để phân phối tới người sự dụng . Song sự định giá , trao đổi , mua bán này không thể chỉ căn cứ vào quy luật kinh tế mà phải tuân theo quy luật của văn hoá , tư tưởng , đạo đức ; phải phục vụ mục tiêu phát triển toàn diện con người , cho tiến bộ và công bằng , văn minh .

   Thực hiện chính sách đối ngoại đa phương hoá , đa dạng hoá , đất nước ta có cơ hội giao lưu , tiếp nhận , học hỏi vô cùng thuận lợi . Trong quá trình đó , chúng ta bắt gặp nhiều cái hay , cái đẹp và những đIểm tương đồng trên lĩnh vực văn hoá , nhưng điều đó hoàn toàn không có nghĩa là mọi dân tộc sẽ đi tới sự thống nhất về văn hoá . Traí lại , nhờ quá trình giao lưu đó , mỗi dân tộc đều có thể đóng góp những bản sắc độc đáo của riêng mình vào kho tàng văn hoá chung của nhân loại , làm cho nền văn hoá của nhân loại ngày càng thêm phong phú , tốt đẹp .

   Bên cạnh việc tiếp thụ những cái tốt , cái tương đồng , chúng ta cũng phải tỉnh táo phòng ngừa , loại trừ những cái xấu , cái dở , cái không phù hợp . Sự học tập , lựa chọn tiếp nhận phải rất chủ động , tinh tường nhất định không để mắc phải thói “ ham thanh chuộng lạ” sùng bái một cách mù quáng mọi cái lạ của bên ngoài . Chúng ta cương quyết khước từ , chống lại sự di nhập những thứ văn hoá phẩm phản động kích động bạo lực , tình dục , hạ thấp các giá trị đạo đức , nhân văn , trái với các truyền thống đạo đức , văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta .

   Trong quá trình giao lưu văn hóa , chúng ta mạnh dạn hội nhập , tiép thụ , nhưng không đánh mất , không “ hoà tan” bản sắc của mình . Trái lại , chúng ta có trách nhiệm bổ sung , đóng góp cho nhân loại những gì đặc sắc của chúng ta và tiếp nhận , bổ sung những tinh hoa nhân loại để bản sắc văn hoá Việt Nam ngày càng giàu đẹp . Làm được như vậy , văn hoá luôn luôn là động lực của sự phát triển là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá , đưa đất nước ta tiến nhanh tới mục tiêu dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng , văn minh .  

II /. Phát huy nội lực văn hóa trong quá trình phát triển .

   Trong quá tình xây dựng đất nước vì mục tiêu “ Dân giàu nước mạnh , xã hội công bằng , văn minh” , vai trò của văn hóa ngày càng được Đảng , Nhà nước và nhân dân quan tâm . Văn hoá dân tộc được xác định trở thành nội lực bên trong của quá trình phát triển . Quan hệ giữa văn hoá và phát triển được bàn luận sôi nổi cả về phương diện lý luận và thực tiễn trong thời gian gần đây . Để phát huy tốt nội lực của văn hoá đối với sự phát triển bền vững và lâu dài của đất nước , cần chú ý đến một số phương diện cơ bản bao gồm ?

   Thứ nhất : Chưa bao giờ văn hoá dân tộc ta có những bước chuyển biến toàn diện và sâu sắc như hiện nay . Đây là thời kỳ chuyển đổi mạnh mẽ cả về quan niệm giá trị , chuẩn mực văn hoá , chuyển đổi cả công nghệ , kỹ thuật và cơ sở vật chất của văn hóa , chuyển đổi về đội ngũ nhân sự , bộ máy hoạt động văn hoá , cùng với nó là sự chuyển đổi lối sống , nếp tư duy , tầm nhìn và cách nhìn của cá nhân và cộng đồng với hàng loạt các nhu cầu văn hó phong phú và đa dạng của nhân dân . Sự chuyển đổi này có cơ sở khách quan từ sự đổi mới toàn diện của đất nước mà cốt lõi cơ bản là phát triển kinh tế thị trường đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa , tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế , đa phương hoá , đa dạng hoá các mối quan hệ quốc tế . Sự chuyển đổi này là kết quả của quá trình vận động đầy mâu thuẫn , đầy xung đột , mang kịch tính cao đến mức khắc nghiệt , nhưng đây chính là mâu thuẫn trong quá trình vận động phát triển của đất nước . Vì vậy , sự bình tĩnh và khách quan trong đánh giá các hiện tượng văn hóa - xã hội là một yêu cầu lớn hiện nay .

   Thứ hai : Chưa bao giờ sức ép của xu thế toàn cầu hoá , khu vực hoá được sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại tác động vào nền văn hóa của các dân tộc , các quốc gia lại mạnh mẽ , toàn diện và sâu sắc như hiện nay . Sự đầu tư trực tiếp , gián tiếp của các công ty đa quốc gia và xuyên lục địa , sự giao lưu thương mại và dịch vụ với khối lượng hàng hóa khổng lồ , sự tăng cường dịch vụ du lịch , giải trí , sự mở rộng hệ thống thông tin truyền thông đại chúng , v.v... và v.v... đã làm cho “ tan băng” ở các quốc gia “ đóng” và “sốt” lên ở các quốc gia “ mở” . Ranh giới địa lý hữu hình giữa các quốc gia không cản nổi sự xâm tràn của các trào lưu văn hóa xa lạ . Xu thế toàn cầu hoá , khu vực hóa vừa mang lại thời cơ lớn , đồng thời vừa là thách thưc lớn đối với mỗi nền văn hoá khác nhau , đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển .

   Thứ ba : Mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế trở thành một trong những vấn đề trung tâm của thời đại . Các dân tộc trong quá trình phát triển đang tìm cách kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại , tranh thủ thời cơ , chống lại các nguy cơ để tập trung xây dựng đất nước . Sức mạnh của sự liên kết cộng đồng được đặc trưng ở việc giữ gìn , phát huy bản sắc và bản lĩnh văn hoá của dân tộc trong giao lưu quốc tế . Do đó , cùng với xu thế hội nhập quốc tế là xu thế bảo vệ , giữ gìn và phát huy bản sắc và bản lĩnh dân tộc , chống lại xu hướng “ đồng hoá” hay “ nhất thể hoá” về văn hóa .

   Bản săc văn hoá là những dấu hiệu đặc trưng để phân biệt văn hoá của cộng đồng này với cộng đồng khác , dân tộc này với dân tộc khác , quốc gia này với quốc gia khác . Đây là “ gien” di truyền văn hoá của từng dân tộc . “ Gien” di truyền này kết tinh ở truyền thống văn hoá dân tộc thể hiện trong lối sống , trong phong tục , tập quán , trong các hoạt động sản xuất vật chất và tinh thần của cộng đồng . Trong giao lưu quốc tế , các dân tộc sẽ đánh mất sự tồn tại của mình nếu mất bộ “ gien” di truyền văn hoá . Cần tránh sai lầm đồng nhất bản sắc văn hoá dân tộc với những hình thức thể hiện bên ngoài của nó . Bản sắc văn hoá dân tộc bao chứa cả “ cái tĩnh” và “ cái động” , “ cái cổ truyền” và “ cái hiện đại” , cả hình thức và nội dung , cả “ cái ngoại sinh” được “ nội sinh” hoá . Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc không có nghĩa là quay về “ phục cổ” , quay về với cái cũ mà phải căn cứ vào quan điểm phát triển đất nước vì mục tiêu “ dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng và văn minh” trong thời kỳ công nghiệp hoá , hiện đại hoá . Yêu cầu phát triển đất nước là tiêu chí để lựa chọn giữa cái cũ và cái mới , cái bên trong và cái bên ngoài , cái nội sinh và cái ngoại sinh . Tính tự giác của quá trình lựa chọn văn

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net