Chương 9

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng
giá chúng ta phải trả cho việc sử dụng chúng là rất nặng nề - sự đoạn tuyệt vĩnh viễn với hiện tại đang diễn ra. Như cậu biết đấy, những người sống quá lâu trong vòng không thể đặt chân ra ngoài hiện tại nếu không sẽ già đi nhanh chóng và chết. Đây là sự sắp đặt đã tồn tại từ cổ xưa."
Bà bập thêm một hơi thuốc, rồi nói tiếp.
"Nhiều năm trước, vào khoảng cuối thế kỷ trước, một nhóm tách biệt xuất hiện trong cộng đồng chúng ta - một nhóm những người đặc biệt bất mãn, mang theo những ý tưởng nguy hiểm. Họ tin rằng họ đã khám phá ra một phương pháp cho phép lợi dụng chức năng của vòng thời gian để đem đến cho người dùng một điều giống như sự bất tử, không chỉ đơn thuần là ngừng lại quá trình lão hóa, mà còn đảo ngược nó. Họ nói tới tuổi trẻ vĩnh cửu có thể tận hưởng bên ngoài giới hạn của vòng thời gian, tới chuyện nhảy tới nhảy lui từ tương lai về quá khứ mà không phải trả giá, không phải chịu đựng những hậu quả tồi tệ vẫn luôn ngăn chặn những hành động nông nổi như thế - nói cách khác là làm chủ thời gian mà không bị cái chết làm chủ. Toàn bộ ý tưởng này thật điên rồ - hoàn toàn là chuyện ba hoa rỗng tuếch - một sự bác bỏ những quy luật thực tế kiểm soát mọi thứ!"
Bà thở hắt ra thật mạnh, sau đó dừng lại một lát để trấn tĩnh.
"Dù thế nào đi nữa, hai em trai ta, xuất sắc về kỹ năng nhưng lại thiếu sự tỉnh táo, đã bị ý tưởng đó hấp dẫn. Chúng thậm chí còn cả gan đề nghị ta trợ giúp để biến nó thành thực tế. Các cậu đang nói đến chuyện biến mình thành các vị thần đấy ta đã nói vậy. Không thể làm được điều đó. Và cho dù có thể thì cũng không nên làm. Nhưng chẳng thể nào khiến chúng đổi ý. Vì đã lớn lên giữa các học viên Chủ Vòng Thời Gian của cô Avocet, chúng biết về kỹ năng độc nhất vô nhị của chúng ta nhiều hơn phần lớn các nam giới đặc biệt - vừa đủ để trở thành nguy hiểm, ta e là vậy. Bất chấp những lời cảnh báo, thậm chí là đe dọa của Hội đồng, vào mùa hè năm 1908, các em trai ta và vài trăm thành viên của nhóm ly khai này - trong đó có cả một số Chủ Vòng Thời Gian hùng mạnh, tất cả đều là những tên phản bội - tìm đến vùng đài nguyên Siberia để thực hiện thí nghiệm ghê tởm của chúng. Chúng chọn địa điểm là một cái vòng cũ vô danh đã không được dùng đến trong hàng thế kỷ. Chúng ta đã trông đợi chúng trở về vòng suốt một tuần, trong nỗi thất bại ê chề, bị bẽ mặt trước bản chất không thể khuất phục của tự nhiên. Nhưng thay vì thế, sự trừng phạt giáng xuống đầu chúng còn kinh hoàng hơn nhiều: một vụ nổ thảm họa đã làm vỡ tung kính cửa sổ ở tận Azores[21]. Tất cả những ai có mặt trong vòng bán kính năm trăm ki lô mét chắc chắn đều đã nghĩ vụ nổ là ngày tận thế. Chúng ta cho rằng tất cả chúng đều đã bị giết, vụ nổ kinh hoàng làm chấn động thế giới đó là tiếng hét đồng thanh cuối cùng của chúng."
"Nhưng bọn họ sống sót", tôi đoán.
"Có thể nói như vậy. Những người khác có thể gọi trạng thái tồn tại của chúng sau đó là một kiếp sống đọa đày. Vài tuần sau vụ nổ, bắt đầu xuất hiện một loạt vụ tấn công nhằm vào những người đặc biệt bởi những sinh vật ghê tởm không thấy hình chỉ thấy bóng, trừ những người đặc biệt như cậu - đây là những cuộc chạm trán đầu tiên của chúng ta với đám hồn rỗng. Phải mất một thời gian chúng ta mới nhận ra những con quái vật ghê tởm miệng đầy xúc tu kia trên thực tế chính là những người anh em lạc lối của chúng ta, những kẻ đã bò ra khỏi miệng hố bốc khói nghi ngút mà thí nghiệm của chúng để lại. Thay vì trở thành các vị thần chúng đã biến mình thành những con quái vật."
"Chuyện gì đã diễn ra vậy?"
"Đó vẫn là một vấn đề được tranh cãi. Một giả thuyết là chúng đã đảo ngược tuổi tác cho bản thân về một thời điểm thậm chí linh hồn của chúng còn chưa được hình thành và cũng vì thế chúng ta gọi chúng là đám hồn rỗng - vì chúng không có trái tim hay linh hồn. Trong một sự trớ trêu đầy mỉa mai, chúng đã đạt được sự bất tử vốn tìm kiếm. Người ta tin rằng các hồn rỗng có thể sống hàng nghìn năm, nhưng đó là một cuộc sống trong sự giày vò thường trực về thể xác, của nỗi nhục nhã ê chề - kiếm ăn bằng những con vật đi lạc, sống trong lẩn tránh cô độc - cùng sự thèm khát vô bờ máu thịt của các đồng loại trước đây của chúng, vì máu chúng ta là hy vọng cứu rỗi duy nhất chúng có. Nếu một hồn rỗng ăn thịt đủ nhiều người đặc biệt, nó sẽ trở thành một xác sống."
"Lại từ đó", tôi nói. "Khi chúng cháu gặp nhau lần đầu tiên, Emma đã buộc tội cháu là một xác sống."
"Rất có thể ta cũng nghĩ đến điều tương tự nếu ta không từng quan sát cậu trước đó."
"Chúng là ai vậy?"
"Nếu trở thành hồn rỗng đồng nghĩa với sống trong địa ngục - và chắc chắn đúng là như thế - thì trở thành xác sống cũng gần như sống trong luyện ngục. Xác sống gần như là người thường. Chúng không có năng lực đặc biệt nào. Nhưng vì chúng có thể hòa lẫn vào cộng đồng người, chúng sống để làm tôi tớ cho các huynh đệ hồn rỗng của chúng làm những việc thám thính, gián điệp và cung cấp nguồn thịt sống. Đó là hệ thống phân công thứ bậc trong đội ngũ những kẻ bị nguyền rủa nhằm mục tiêu đến một ngày nào đó biến toàn bộ hồn rỗng thành xác sống và tất cả những người đặc biệt thành xác chết."
"Nhưng điều gì đã ngăn cản chúng vậy?" tôi hỏi. "Nếu chúng từ là người đặc biệt, chẳng phải chúng biết tất cả những nơi ẩn náu của bà và những người như bà sao?"
"May thay, có vẻ chúng không lưu được chút ký ức nào của cuộc sống trước đây. Và dù các xác sống không hùng mạnh hay kinh khủng như đám hồn rỗng, chúng cũng nguy hiểm không kém. Không như các hồn rỗng, chúng không chỉ hành động theo bản năng, và thường có khả năng hòa lẫn vào cộng đồng dân cư bình thường. Rất khó phân biệt chúng với người thường cho dù có một số dấu hiệu. Chẳng hạn như mắt của chúng. Thật lạ lùng, lũ xác sống không có đồng tử."
Tôi bỗng nổi gai ốc khắp người, nhớ lại người hàng xóm có đôi mắt trắng dã đang tưới nước cho bãi cỏ mọc quá cao của ông ta vào đêm ông nội tôi bị sát hại. "Cháu nghĩ cháu đã nhìn thấy một gã. Lúc đấy cháu cho rằng gã chỉ là một ông lão mù lòa."
"Vậy là cậu đã tinh ý hơn phần lớn những người khác", bà nói. "Xác sống rất khéo qua mặt người đời. Chúng có xu hướng sắm vai những nhân vật hoàn toàn mờ nhạt trong xã hội: người đàn ông mặc bộ đồ xám trên tàu hỏa, người nghèo khổ ăn xin những đồng xu lẻ; chỉ là những khuôn mặt như vô vàn khuôn mặt trong đám đông. Cho dù người ta biết có một số từng chấp nhận mạo hiểm với nguy cơ bị lộ tẩy khi đặt mình vào những vị trí nổi bật hơn - bác sĩ, chính khách, giáo sĩ - nhằm tương tác được với số lượng người lớn hơn, hoặc để có được quyền lực nhất định lên họ, qua đó chúng có thể phát hiện những người đặc biệt đang ẩn mình trong đám đông bình thường - như Abe chẳng hạn - dễ dàng hơn."
Bà Peregrine với lấy một cuốn album ảnh bà đã cầm theo từ trong nhà ra và bắt đầu lật giở. "Những bức ảnh này đã được rửa lại và phân phát cho những người đặc biệt ở khắp nơi, cũng giống như những tấm hình truy nã. Hãy nhìn đây", bà vừa nói vừa chỉ vào một bức ảnh chụp hai cô gái cưỡi trên một con tuần lộc giả, một ông già Noel có đôi mắt trắng dã khiến người ta ớn lạnh đang nhìn vào ống kính qua bộ gạc của con tuần lộc. "Gã xác sống này đã bị phát giác khi đang làm việc trong một khu bách hóa ở Mỹ vào dịp Giáng sinh. Gã đã có thể tiếp xúc với rất nhiều trẻ em trong một thời gian cực ngắn - chạm vào chúng, hỏi chuyện chúng - và dò tìm những biểu hiện của năng lực đặc biệt."
Bà lật trang để lộ ra bức ảnh chụp một nha sĩ với vẻ mặt bệnh hoạn. "Xác sống này làm việc như một bác sĩ phẫu thuật răng miệng. Ta không hề ngạc nhiên khi biết được rằng cái sọ hắn chụp ảnh cùng thuộc về một trong những nạn nhân đặc biệt của hắn."
Bà Peregrine lại lật trang, lần này sang bức ảnh chụp một cô bé con đang co rúm người lại trước một cái bóng to tướng. "Đây là Marcie. Cô bé rời khỏi chúng ta ba mươi năm trước để sống với một gia đình bình thường ở nông thôn. Ta đã cầu khẩn cô bé hãy ở lại, nhưng cô bé rất kiên quyết. Không lâu sau đó, cô bé bị một xác sống bắt cóc trong lúc đợi xe buýt của trường. Người ta tìm thấy một cái máy ảnh tại hiện trường cùng phim chụp bức ảnh này bên trong."
"Ai đã chụp nó vậy?"
"Chính gã xác sống. Chúng thích những hành động kịch tính, và luôn để lại đằng sau một vật kỷ niệm cay độc nào đó."
Tôi chăm chú nhìn các bức ảnh, cảm giác rờn rợn quen thuộc khẽ cuộn lên bên trong tôi.
Khi không thể nhìn vào những bức ảnh đó thêm được nữa, tôi đóng cuốn album lại.
"Ta nói với cậu tất cả chuyện này vì cậu có quyền biết chúng", bà Peregrine nói, "nhưng cũng vì ta cần sự giúp đỡ của cậu. Cậu là người duy nhất trong chúng ta có thể ra ngoài vòng mà không gây nghi ngờ. Chừng nào cậu ở đây cùng chúng ta và nhất định tiếp tục đi đi về về, ta cần cậu theo dõi những người mới tới đảo và báo lại tình hình của họ cho ta."
"Vừa có một người hôm trước", tôi nói, nghĩ tới người quan sát chim đã làm bố tôi buồn phiền.
"Cậu có nhìn thấy mắt người đó không?" bà hỏi.
"Thực sự thì không. Lúc đó rất tối, và ông ta đang đội một cái mũ to che khuất một phần khuôn mặt."
Bà Peregrine cắn nhẹ khớp đốt ngón tay, lông mày bà nhíu lại.
"Sao thế? Bà nghĩ người đó có thể là một trong số chúng không?"
"Không thể nào chắc chắn được nếu không nhìn thấy đôi mắt", bà nói, "nhưng khả năng cậu bị bám theo khi tới hòn đảo này làm ta rất lo ngại."
"Ý bà là sao? Bị một xác sống bám theo?"
"Có thể chính là kẻ cậu mô tả là đã trông thấy vào buổi tối ông cậu chết. Điều đó có thể giải thích vì sao chúng để lại mạng sống cho cậu - để cậu có thể dẫn chúng tới một miếng mồi còn đáng giá hơn: nơi này."
"Nhưng làm sao chúng biết cháu là người đặc biệt? Đến cháu còn không biết!"
"Nếu chúng biết về ông cậu, cậu có thể tin chắc là chúng cũng biết cả về cậu nữa."
Tôi nghĩ về tất cả những cơ hội chắc chắn chúng đã có để giết tôi. Tất cả những lần tôi cảm thấy chúng ở gần kề trong những tuần tiếp sau cái chết của ông nội Portman. Có phải chúng đã theo dõi tôi không? Để chờ tôi làm đúng những gì tôi đã làm, và tới đây?
Cảm thấy choáng váng, tôi gục lên hai đầu gối. "Cháu không nghĩ bà có thể cho phép cháu uống một ngụm thứ vang đó", tôi nói.
"Đương nhiên là không."
Đột nhiên, tôi cảm thấy ngực mình thắt lại. "Liệu có nơi nào cháu được an toàn không?" tôi hỏi bà.
Bà Peregrine đặt bàn tay lên vai tôi. "Ở đây cậu được an toàn", bà nói. "Và cậu có thể sống cùng chúng ta đến chừng nào cậu muốn."
Tôi cố mở lời, nhưng chỉ phát ra được những lời lí nhí rời rạc. "Nhưng cháu... cháu không thể... bố mẹ cháu."
"Họ có thể yêu cậu", bà thì thầm, "nhưng họ sẽ không bao giờ hiểu được."
***
Khi tôi về tới thị trấn, mặt trời đang hắt những cái bóng dài đầu tiên vắt ngang qua các con đường, những bợm rượu đã uống cả đêm đang chếnh choáng quay vòng quanh các cột đèn trên cuộc hành trình bất đắc dĩ trở về nhà, các ngư dân đang nặng nhọc lê bước ra bến tàu với những đôi ủng to màu đen, còn bố tôi chỉ mới bắt đầu cựa mình tỉnh dậy từ một giấc ngủ nặng nề. Trong khi ông xuống khỏi giường mình, thì tôi đang leo lên giường tôi, kéo chăn trùm lên bộ quần áo đầy cát chỉ vài giây trước khi ông mở cửa để kiểm tra.
"Cảm thấy ổn chứ con?"
Tôi rên lên và lăn người tránh xa khỏi bố, ông bèn đi ra ngoài. Chiều muộn hôm đó, tôi tỉnh dậy thì thấy một tờ giấy nhắn đầy cảm thông và một hộp thuốc cảm trên mặt bàn phòng sinh hoạt chung. Tôi mỉm cười và cảm thấy có lỗi trong thoáng chốc vì đã nói dối ông. Sau đó, tôi bắt đầu lo lắng, ông đang lang thang ngoài kia qua các mũi đất cùng cái ống nhòm và cuốn sổ ghi chép nhỏ của ông, có thể cùng với một gã điên đã giết đám cừu.
Dụi dụi xua giấc ngủ ra khỏi đôi mắt sau đó mặc áo mưa, tôi đi một vòng quanh làng rồi quanh những vách đá và bãi biển gần đó, hy vọng sẽ bắt gặp bố tôi hoặc nhà điểu cầm học kỳ dị kia - và nhìn thật rõ đôi mắt ông ta - nhưng chẳng thể tìm thấy ai trong hai người. Trời đã nhá nhem, cuối cùng tôi đành bỏ cuộc và quay về Priest Hole thì thấy bố đang ngồi ở quầy bar, nhâm nhi bia cùng các vị khách quen. Từ những vỏ chai rỗng ở quanh ông, tôi nghĩ hẳn ông đã ngồi đó được khá lâu.
Tôi ngồi xuống cạnh ông, hỏi ông có thấy nhà quan sát chim râu xồm hay không. Ông bảo không thấy.
"À, nếu bố có gặp", tôi nói, "làm ơn hãy vì con mà giữ khoảng cách với ông ta, được chứ ạ?"
Bố nhìn tôi thật lạ. "Tại sao?"
"Chỉ là ông ta làm con thấy bất an. Nhỡ ông ta là một gã điên nào thì sao? Nhỡ đâu ông ta lại chính là kẻ đã giết mấy con cừu kia?"
"Con lấy đâu ra những ý tưởng kỳ quái đó vậy?"
Tôi muốn nói với bố. Tôi muốn giải thích tất cả, và muốn ông nói với tôi là ông hiểu, rồi dành cho tôi lời khuyên của một người cha. Vào khoảnh khắc đó, tôi muốn mọi thứ quay trở lại như trước khi chúng tôi tới đây; trước khi tôi tìm thấy lá thư của bà Peregrine, trở lại khi tôi chỉ là một cậu ấm con nhà giàu bình thường hay sinh chuyện ở ngoại ô. Thay vì thế, tôi ngồi xuống cạnh bố một hồi mà không nói gì, và tôi cố nhớ xem cuộc đời mình từng thế nào trong thời kỳ xa xăm vô tận cách đây bốn tuần, hay hình dung xem nó có thể sẽ ra sao sau bốn tuần nữa - nhưng tôi không thể. Cuối cùng, hai bố con tôi chẳng còn gì nữa để nói với nhau, tôi bèn tìm cớ rút lui rồi lên lầu để được một mình.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net

#kinhdi