Q2 - Đọc to 1 + Humbert 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

C1-1: Đọc to 1

“Đúng rồi,” Lạc Văn Chu lấy mấy tấm ảnh từ bìa đựng hồ sơ ôm trước ngực, “Cho cậu xem một thứ.”

Trên ảnh là một cây bút máy đựng trong túi vật chứng, cách ống kính cũng có thể cảm nhận được chất liệu, trên nắp bút khắc chữ “Phí”: “Một trong các món đồ Triệu Hạo Xương lưu giữ, quen mắt không, có phải của cậu không?”

Anh vốn chờ mong trông thấy một chút kinh ngạc trên mặt hắn, ai ngờ Phí Độ chỉ nhìn lướt qua, chẳng hề bất ngờ nói: “Thì ra ở chỗ hắn, mất hôm Giáng Sinh năm ngoái.”

Lạc Văn Chu: “…”

Ngày tháng giống hệt Triệu Hạo Xương ghi, ai không biết khéo còn tưởng là Phí Độ tặng hắn ta.

“Lúc không tìm được đồ đạc, tôi thường nhớ lại một chút trạng thái tâm lý trước sau là đại khái biết đã để ở đâu,” Phí Độ nhún vai, “Vẫn không tìm ra, thì chỉ có khả năng là bị người ta lấy rồi – có điều hôm đó nhân viên và khách hàng ra vào văn phòng tôi rất nhiều, vì sợ gây ra không vui, tôi cũng không làm to chuyện.”

Lạc Văn Chu: “Cậu không muốn biết nhãn là gì à?”

Phí Độ nhún vai, đường nhìn dừng ở phía sau tấm ảnh chụp cây bút – ống kính hơi xa hơn, chụp một góc cây đèn đặt dưới đất trong tầng hầm nhà Triệu Hạo Xương, chiếc đèn cây như tiêu bản lặng lẽ phát sáng, tựa ánh mắt dõi đến từ thời không xa xôi, vĩnh viễn đi theo gã thanh niên nông thôn đã thay tên đổi họ năm ấy.

“Không muốn lắm,” Phí Độ nói, “Tòa án xét xử xong cũng khỏi phải trả lại, đã dính mùi khét, tôi không cần nữa.”

Sau khi sắp xếp xong xuôi cho Vương Tú Quyên, Phí Độ không chào người khác, một mình lặng yên rời khỏi, lái xe đi thẳng đến vùng ngoại thành.

Mới qua hoàng hôn, trời hơi âm u, trong nghĩa địa bóng bia lắc lư, lũ quạ chờn vờn, mùi bùn đất ẩm ướt bốc lên khỏi mặt đất, người chết yên nghỉ chăm chú nhìn người sống qua lại.

Phí Độ cầm một bó hoa bách hợp, quen đường thuộc lối đạp bước chân năm thứ bảy đến trước một bia mộ hơi cũ. Người phụ nữ trên bia sắc mặt nhợt nhạt, ánh mắt u buồn, phủ lên một tầng mỹ cảm yếu ớt, vĩnh viễn không phai màu mà nhìn hắn.

Phí Độ nhìn bà một lúc, đoạn hắn xắn tay áo, dùng vải mềm lau một lượt bia mộ, sau đó hắn đặt một nụ hôn khẽ lên hai ngón tay rồi ấn lên tấm bia, lần đầu tiên mỉm cười thoải mái trước mặt bà.

Giống như rốt cuộc đẩy cỗ quan tài đè trong lòng hắn ra, thả vào phần mộ để không, tất cả kết thúc.

Lạc Văn Chu ở đằng xa nhìn hắn rời khỏi rồi mới rón rén đi tới như ăn trộm, đặt xuống một bó cúc trắng, cúi chào người phụ nữ trên bia.

Anh và chủ nhân ngôi mộ trao đổi trong im lặng một lúc, đang chuẩn bị đi thì đột nhiên trên mặt lành lạnh, vùng ngoại thành lại đổ mưa không hề báo trước.

Lạc Văn Chu không mang ô, “Chậc” một tiếng, đang tính dùng tay che đầu đội mưa chạy đi, vừa giơ tay lên thì một bóng đen đã xòe ra trên đầu.

Lạc Văn Chu giật mình quay đầu lại – Phí Độ không biết trở về từ khi nào, đang giơ ô, vẻ mặt hơi phức tạp nhìn anh.

C1-2: Humbert 1
Lấy một ví dụ tương đối không thích hợp, trạng thái tâm lý của Lạc Văn Chu lúc này chắc cũng chẳng khác mấy Triệu Hạo Xương khi lần đầu nghe nói bí mật của mình ở “làng rượu Phong Tình” bị phát hiện.

Anh như bị sét đánh, cả người lẫn “tang vật” cùng bị tóm gọn – bó hoa trắng tròn xoe còn đang vươn cành trong mưa.

Lạc Văn Chu lắp bắp giải thích một câu: “Tôi… a… ơ… tôi kỳ thực chỉ tiện đường đến thăm.”

Cứ đi theo tuyến đường này, sợ rằng đội trưởng Lạc vĩ đại muốn trốn sang Bắc Triều Tiên.

Không cần Phí Độ mở miệng giễu cợt, chính Lạc Văn Chu cũng nhận ra câu lý do lý trấu này rất có “phong phạm Trương Đông Lai”.

Giờ này phút này, đừng nói da mặt anh chỉ có độ dày của phàm thai nhục thể, dẫu có đắp Trường Thành lên mặt cũng chẳng ngăn được ánh mắt khiến người ta không thể trốn của Phí Độ. Lạc Văn Chu hoảng hốt tránh ánh nhìn của hắn, ứng phó lung tung vài câu, lập tức tính vắt giò lên cổ bỏ chạy cho nhanh.

“Mẹ con cậu trò chuyện đi,” Lạc Văn Chu nói, “Mai tôi còn phải đi làm, tôi đi trước đây.”

Vừa nói anh vừa sải bước muốn lao vào màn mưa, còn chưa kịp cảm nhận thiên nhiên “tưới tắm”, ngay lập tức, chiếc ô to màu đen trên đầu lại đuổi theo như bóng với hình.

Chân Phí Độ không nhúc nhích, hắn chỉ hơi giơ tay ra, nửa bả vai nhanh chóng bị mưa to làm ướt, kết một tầng hơi nước như có như không trên người.

Sau đó hắn lặng lẽ hỏi: “Thì ra hoa này là do anh đặt?”

Bảy năm qua, mỗi lần Phí Độ đều đến nghĩa địa trước sau ngày giỗ, có lúc hắn đến hơi muộn, thường gặp một bó hoa trắng nhỏ “gu” tệ, nghĩa địa mỗi ngày bao nhiêu người ra vào, quản lý lỏng lẻo, hỏi cũng không trả lời được.

Có vẻ không có ác ý, Phí Độ cũng không để bụng lắm, nhưng hắn từng cân nhắc rất nhiều khả năng, mà chỉ riêng không ngờ sẽ là Lạc Văn Chu.

Lạc Văn Chu hết sức xấu hổ “Ừm” một tiếng, lại nhìn ngang nhìn dọc mà nói: “Đến cũng đến rồi, chỉ tùy tiện mang một ít – Cậu… à ừm, không phải đã đi rồi à?”

Phí Độ dùng ánh mắt càng khó hiểu hơn nhìn thẳng anh mà hỏi ngược: “Sao anh biết tôi đã đi rồi?”

Lạc Văn Chu: “…”

Tốt lắm, anh cảm thấy trạng thái tâm lý của mình lại vô cùng gần Triệu Hạo Xương khi lỡ lời.

Phí Độ đường hoàng nhét cái ô to nặng trịch vào tay anh, khom lưng nhặt tấm khăn lụa rơi cạnh bia mộ: “Tôi quên mang cái này đi.”

Lạc Văn Chu bị thiếu gia ủy thác trọng trách che ô, nhất thời đi không được, ở cũng xấu hổ, đành phải theo sau Phí Độ, nhìn ngó khắp nơi giả vờ thưởng thức phong cảnh.

Di ảnh hoặc trang nghiêm hoặc trang trọng của chủ nhân các ngôi mộ chỉnh tề xếp xung quanh đổ dồn ánh mắt vào anh, màn mưa đằng xa nối liền không trung xám xịt với ngọn núi nhỏ vùng ngoại ô, sóc trên núi cũng chui về hốc cây đóng cửa không tiếp khách – ánh mắt Lạc Văn Chu không điểm dừng đảo quanh một lúc lâu, rốt cuộc chỉ có thể cam chịu trước số phận mà dừng ở Phí Độ sinh vật sống duy nhất trong không gian be bé do ô căng ra.

Lạc Văn Chu ngạc nhiên phát hiện, chỉ cần sinh vật sống đừng suốt ngày mở miệng coi rẻ đạo nghĩa pháp luật, thì ra là một mỹ nam dáng người cao gầy, bả vai cân đối. Sơ mi màu xám đậm phẳng phiu vừa vặn, ướt một mảng nhỏ dán sát lên hông, nhìn từ đôi mắt thích “nam”, cơ hồ có thể nói là “sắc tướng”, cực kỳ đẹp mắt vừa lòng.

Bỗng nhiên, Phí Độ quay người lại, Lạc Văn Chu không kịp tránh chạm nhẹ ánh mắt hắn, không khỏi nín thở. Song anh nhanh chóng định thần lại, lôi thần hồn lầm đường lạc lối ngắn ngủi trở về, ho nhẹ một tiếng: “Anh trò chuyện vài câu với chú được chứ?”

Trên mặt Phí Độ rốt cuộc lộ ra cái vẻ ngoài cười trong không cười mà Lạc Văn Chu quen thuộc: “Đội trưởng Lạc, gặp ai anh cũng tự thân như vậy à?”

Sự trào phúng đã lâu không gặp này rốt cuộc xua tan bầu không khí căng thẳng vừa rồi, Lạc Văn Chu tự dưng thở phào nhẹ nhõm, chỉ bậc đá nhỏ phía dưới bia mộ: “Đợi một lúc đi, muốn về còn phải xuống núi trước, mưa to thế này dễ xảy ra nguy hiểm lắm.”

Phí Độ ngồi trên bậc đá không ừ hữ gì.

Lạc Văn Chu giơ cây ô carbon nặng trịch, cảm thấy tạo hình của mình giống một cây nấm nở bung, anh quay đầu lại hơi khom lưng chào người phụ nữ trên bia, sóng vai ngồi cạnh Phí Độ.

Cảm giác Phí Độ mang đến cho người ta – ít nhất là cho Lạc Văn Chu, thường như đôi kính gọng kim loại thi thoảng hắn đeo trên mũi, nhìn rất tinh xảo, kỳ thực im lặng lộ ra sự lạnh lẽo không hợp lẽ thường.

Song lúc này đây, bị nhốt chung dưới một chiếc ô, anh lại ngạc nhiên phát hiện nhiệt độ cơ thể của người này không hề thấp chút nào.

Cơn mưa nặng hạt chớp mắt đã rơi khắp, hơi nóng ẩn mình đi, hơi lạnh ẩm ướt thốc vào mặt, càng làm bật lên sự ấm áp của cơ thể bên cạnh.

“Tôi thỉnh thoảng sẽ đến thăm,” Lạc Văn Chu mở miệng trước, “Dù gì đây cũng là vụ án mạng đầu tiên tôi xử lý.”

Phí Độ: “Cho nên ấn tượng khắc sâu?”

“Ừ,” Lạc Văn Chu ngắn gọn gật đầu, im lặng một lúc lâu lại nói, “Nhưng không phải ấn tượng khắc sâu đối với mẹ cậu.”

Phí Độ không mấy để ý nói: “Đội trưởng Lạc có xác chết kiểu nào mà chưa thấy, đương nhiên…”

Lạc Văn Chu: “Tôi mãi không quên được cậu.”

Phí Độ dừng khựng lại, suýt nữa bị sặc, hắn kinh ngạc quay đầu nhìn Lạc Văn Chu, hoài nghi anh ta uống nhầm thuốc.

Lạc Văn Chu không chú ý mình đã nói một câu rất có ý nghĩa khác, các ngón tay hơi chai chầm chậm vuốt cán ô, chăm chú nhìn đá phiến bằng phẳng trước mắt: “Tôi nhớ hôm đó thời tiết cũng không đẹp lắm, tôi và Đào Nhiên vừa gọi điện thoại xin chỉ thị từ tiền bối, vừa chạy hết tốc lực tới nhà cậu. Do chưa rõ tình hình, chúng tôi sợ lỡ đâu là vụ án giết người cướp của, hung thủ chưa đi xa, cậu lại không chịu rời khỏi, một cậu bé ở đó sẽ gặp nguy hiểm.”

Phí Độ tựa hồ hơi xúc động, thu lại cái vẻ như cười như không gợi đòn.

“Lúc chạy đến, cậu cũng ngồi trên bậc đá trước cửa bằng chính tư thế này,” Lạc Văn Chu nói, “Sau đó nghe tiếng bước chân, ngẩng đầu nhìn chúng tôi, tôi mãi không quên được ánh mắt ấy.”

Đó là một ánh mắt trong veo cơ hồ thẫn thờ, như kìm nén rất nhiều cầu cứu và kỳ vọng chưa từng nói ra miệng – dù rằng thái độ của cậu thiếu niên kia lúc ấy là kiềm chế và giấu kín.

“Cậu khiến tôi nhớ đến một câu chuyện sư phụ tôi từng kể.”

“Đó là chuyện khi ông ấy còn trẻ, có lẽ cậu còn chưa ra đời đâu – Lúc ấy có một vụ án trẻ em mất tích, trước sau mất tích mấy đứa trẻ, đều là bé gái trên dưới mười tuổi, tan học không về nhà, cứ thế biến mất mà thần không biết quỷ không hay. Khi đó kỹ thuật và trình độ điều tra đều có hạn, cơ bản chưa biết ADN là cái gì, xác định danh tính người chết đều dựa vào biện pháp ngu ngốc là nhóm máu và đặc trưng do gia đình cung cấp. Vụ án này cuối cùng bỏ dở, sáu bé gái mất tích không tìm được một, cha một nạn nhân trong số này không chịu nổi kích thích đã suy sụp, sau đó tinh thần vẫn không được bình thường lắm.”

Phí Độ không xen ngang, ngồi bên cạnh im lặng lắng nghe.

“Ông ta chạy qua chạy lại Cục công an cả trăm chuyến song không có bất cứ kết quả gì, mà án đâu chỉ riêng một vụ này, chậm chạp không có đột phá, mọi người chắc chắn phải chuyển dời tầm mắt, thế là họ phái một cảnh sát kỳ cựu tương đối giỏi ăn nói đi đuổi người cha bám riết không thôi này, người đó chính là sư phụ tôi. Tiếp xúc nhiều, sư phụ tôi tội nghiệp ông ta, đôi khi sẽ khuyên ông ta nhìn về phía trước, nếu thật sự không vượt qua được khúc mắc con cái, chi bằng nhân còn trẻ đẻ thêm một đứa. Ông ta không nghe, không ai tra giúp liền tự mình điều tra, mấy tháng sau, một ngày nọ ông ta đột nhiên chui ra, túm sư phụ tôi nói đã tìm được kẻ hiềm nghi rồi.”

Nói đến đây Lạc Văn Chu dừng lại, nghiêng đầu nhìn vào mắt Phí Độ.

Khóe mắt Phí Độ đã hoàn toàn phát triển, vẫn thấp thoáng dáng vẻ thời thiếu niên, song bên trong lại khác biệt rất lớn. Ánh mắt hắn không biết từ khi nào bắt đầu trở nên uể oải, cũng thường xuyên nửa mở nửa nhắm, đôi lúc hắn nhã nhặn lịch sự mỉm cười với người khác, kỳ thực ánh mắt còn chưa đúng tiêu cự, đầy vẻ dửng dưng, đôi mắt quật cường trong veo thậm chí còn có chút cố chấp năm ấy, đã chẳng còn sót lại một tẹo dấu vết nào.

Chúng tựa hồ chỉ tồn tại trong lòng Lạc Văn Chu, là một ảo giác tự đa tình của chính anh vậy.

Anh chăm chú nhìn Phí Độ mà ngẩn ra quá lâu, Phí Độ không nhịn được lắm miệng chọc cho anh buồn nôn, ánh mắt không tốt đẹp gì đảo qua mũi và môi Lạc Văn Chu, hạ giọng nói: “Đội trưởng Lạc, phiền anh già rồi đừng giả ngây thơ nữa, anh không biết hành vi nhìn chằm chằm người ta thời gian dài này, thông thường là đang đòi hôn à?”

Lạc Văn Chu thân kinh bách chiến, không dễ bị buồn nôn, anh định thần lại, lập tức mặt không đổi sắc trả đòn: “Yên tâm đi, có đòi cũng chẳng đến lượt chú em đâu, nhãi con.”

Hai người đồng thời nhạy bén cảm thấy một cuộc chiến tranh lại đang manh nha, song nơi đây không có Đào Nhiên hòa giải, bốn bề màn mưa kín lối, cả hai chỉ có một chiếc ô, trú cũng chẳng có chỗ trú, đành phải dùng đến lý trí, nhẫn nhịn lui một bước – cùng ngậm miệng quay đầu đi.

Cả buổi trời, Phí Độ mới hơi nhướng mày, bực dọc nói: “Vụ án trẻ em mất tích thì liên quan gì đến tôi?”

“Sư phụ miêu tả cho tôi ánh mắt ông ta lúc đó, nói ánh mắt người cha ấy như một cái hang lạnh buốt, bên trong có hai luồng khát khao rừng rực, thiêu đốt hồn phách – lúc nhìn thấy cậu, chẳng biết làm sao tôi lại nhớ đến câu này.”

Phí Độ nghe vậy, nhướng mày lên thật cao, chế nhạo một tiếng: “Anh, hoặc là mắt kém, hoặc là trí tưởng tượng quá phong phú. Sau đó thì sao?”

“Người ông ta nói là một giáo viên trung học khá có danh vọng, thầy giáo ấy là người tốt nức tiếng xa gần, từng nhận giải thưởng công ích giúp người làm vui, còn từng là chiến sĩ thi đua.” Lạc Văn Chu nói, “Mặc dù cảm thấy ông ta hơi điên rồi, sư phụ tôi vẫn theo lời đi điều tra thử.”

Phí Độ: “Âm thầm?”

“Đó là một giáo viên, nếu lan truyền lời đồn gì, dù ông ấy vô tội thì đời này cũng xong rồi. Sư phụ tôi chỉ dám âm thầm điều tra, tra mãi chẳng được gì, sư phụ càng nghi ngờ là người cha kia tinh thần có vấn đề, hai người chia tay trong không vui, sư phụ tôi cũng không quản nữa. Nhưng không lâu sau… đã xảy ra một vụ án mạng. Người cha kia dùng dao cắt dưa hấu đâm chết thầy giáo mình hoài nghi.”

Phí Độ “Ha” một tiếng: “Anh yên tâm đi, tôi nhất định sẽ không dùng dao đâm ai, mua hung thủ mới là phong cách của chúng tôi.”

Lạc Văn Chu không để ý sự khiêu khích: “Đáng sợ nhất là, khi họ tiến hành điều tra người chết, phát hiện quần áo của các cô bé mất tích và một bé gái ngất xỉu dưới tầng hầm nhà ông ta.”

Lạc Văn Chu dừng chốc lát, nương màn mưa, anh rất thong thả thở ra một hơi dài, nhớ tới lời ông cảnh sát già kia dặn đi dặn lại: “Nếu có người nhìn con bằng ánh mắt như vậy, cho thấy người ta kỳ vọng vào con, bất luận kết quả là gì, tuyệt đối đừng phụ sự kỳ vọng đó.”

Phí Độ nghe câu chuyện như truyền thuyết đô thị này lại không xúc động gì, chỉ tò mò hỏi: “Anh còn có sư phụ cơ à?”

“Bậc tiền bối dẫn dắt chúng tôi lúc mới vào nghề,” Lạc Văn Chu nói, “Không biết Đào Nhiên có từng nhắc đến chưa – mấy năm trước ông ấy đã hy sinh trong lúc bắt phần tử tội phạm rồi.”

Phí Độ chần chừ một lúc, cau mày nghĩ: “Ba năm trước à?”

“Làm sao cậu biết?”

“Bởi vì tôi không có ấn tượng gì,” Phí Độ nói, “Ba năm trước ba tôi mới gặp chuyện, vừa vặn là lúc đủ mọi việc quấn thân, chỉ có khoảng thời gian đó không sao liên lạc được với Đào Nhiên.”

Lạc Văn Chu nghe đến đó, không biết dây nào bỗng nhiên bị chập, buột miệng hỏi: “Cậu thật sự thích Đào Nhiên à?”

Phí Độ ngồi với tư thế rất thả lỏng, hai chân bắt chéo, các ngón tay đặt trên đầu gối, nghe vậy khóe mắt cong lên, chế nhạo hỏi: “Sao, Đào Nhiên cũng chuẩn bị tìm người kết hôn rồi, mà anh còn muốn đánh nhau một trận với tôi à?”

Lạc Văn Chu khá bất đắc dĩ, lập tức lắc đầu cười, đột nhiên cảm thấy hai người hơi có vẻ như gặp lại một nụ cười xóa hết ân thù. Anh đang vô thức mò tìm hộp thuốc trong túi, lại khó khăn nhịn xuống cơn thèm, Phí Độ bên cạnh liền mở miệng: “Cứ hút đi.”

Lạc Văn Chu ngạc nhiên hỏi: “Không phải cậu viêm họng à?”

Phí Độ nhún vai: “Không có, tôi chỉ tùy tiện kiếm chuyện không cho anh dễ chịu thôi.”

Lạc Văn Chu: “…”

Quả nhiên vẫn là một tên khốn nạn!

Anh không nhịn được giơ tay đấm Phí Độ một phát, ai ngờ Phí Độ là một chân quân tử tuân theo “động khẩu bất động thủ”, vai bất ngờ trúng một đòn không nhẹ không mạnh, tư thế ngồi vốn tao nhã thả lỏng chợt mất thăng bằng, cặp chân dài đang vắt lên rơi xuống, hắn cuống quýt giơ tay chống đất, bùn dính đầy tay thật thảm hại.

Lạc Văn Chu chẳng những không xin lỗi, hình như còn cảm thấy rất thú vị, thoải mái phá lên cười.

Phí Độ: “…”

Tên dã man này!

Hai người hiếm được yên ổn ngồi bên nhau rất lâu, đến khi thấy mưa nhỏ dần, Lạc Văn Chu trả ô lại cho Phí Độ: “Đào Nhiên trang hoàng nhà mới xong rồi, tuần này sẽ dọn đến, tới lúc ấy vừa hay lại ngồi với nhau.”

Phí Độ không lên tiếng, mặt không cảm xúc liếc anh ta, Lạc Văn Chu tự dưng cảm thấy hắn với Lạc Một Nồi rất giống nhau, đều là loại “liếc xuống phàm trần” khi “cả thế giới đều là chó điên, chỉ mình ta cao quý”, nhất thời lại tìm được niềm vui mới, anh vừa không nhịn được cười, vừa ôm đầu chạy vào dưới màn mưa lất phất.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net

#đammỹ