XÂY DỰNG VÀ THAY ĐỔI VĂN HOÁ DOANH NGHIỆP

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng
tượng.

Văn hoá đứng giữa tự nhiên và văn minh. Tính nhân sinh chưa có hoặc quá ít thì

thuộc về tự nhiên. Tính nhân sinh (nhân tạo) quá nhiều thì thuộc về văn minh. Khi tính

nhân sinh có liều lượng thì thuộc về văn hoá.

Văn hoá còn phân biệt với văn minh ở tính giá trị, tính dân tộc, đặc trưng khu vực

và tổ chức xã hội.

c) Trên khía cạnh giá trị

http://www.ebook.edu.vn

Xây dựng và thay đổi văn hoá doanh nghiệp by Ngo QuangThuat

Version 1.0 12 /109

Trên bình diện giá trị, văn hóa được phân biệt với Tập hợp giá trị Phản văn hoá.

Văn hóa phân biệt với tập hợp giá trị là nhờ có tính hệ thống. Một tập hợp giá trị

thiếu tính hệ thống thì vẫn đã thuộc văn hoá rồi, nhưng do rời rạc, không có liên hệ với

nhau nên nó chưa trở thành được một đối tượng (một nền) văn hoá riêng biệt.

Văn hóa phân biệt với phản văn hoá là nhờ tính giá trị. Phản văn hoá không phải là

không có chất văn hoá, không có tính giá trị, mà là ở chỗ tính giá trị của nó có thể bộc

lộ trong một toạ độ văn hoá khác. Một sự vật, hiện tượng có thể có giá trị trong hệ toạ

độ này, nhưng lại là phản văn hoá trong một hệ toạ độ khác.

Như vậy, việc một tập hợp giá trị, một phản văn hoá có là một (nền) văn hoá hay

không là do các mối quan hệ của chúng quyết định.

1.5 Đặc điểm của văn hoá và con người Việt nam:

(Những đánh giá này đã được tham khảo từ một số nhà nghiên cứu, đề quý vị thảo luận,

không mang tính chính thức).

1.0.0 Một số yếu tố của lịnh sử ảnh hưởng đế văn hoá Việt nam:

􀀹 Nền sản xuất nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, tính chất khép kín, thô sơ.

􀀹 Chịu 1000 năm phong kiến phương bắc, 100 năm dưới ách đô hộ của Pháp.

􀀹 2 cuộc chiến tranh tàn phá, hội chứng của chiến tranh để lại là rất lớn.

􀀹 Sự phân chia văn hóa giữa ba miền là rất lớn.

􀀹 Những tư tưởng, phong cách văn hóa phương tây tràn vào Việt nam cũng như một

đội ngũ tri thức VN ở nước ngoài đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn hoá Việt nam

􀀹 Nền kinh tế đất nước còn ảnh hưởng rất lớn từ thời bao cấp.

􀀹 Có sự phân hoá rất lớn về nhận thức của hai thế hệ.

2.0.0 Ưu và nhược điểm của người Việt nam:

a> Ưu điểm của người Việt nam

􀀹 Tương thân tương ái

http://www.ebook.edu.vn

Xây dựng và thay đổi văn hoá doanh nghiệp by Ngo QuangThuat

Version 1.0 13 /109

􀀹 Chịu khó

􀀹 Đoàn kết trong khó khăn.

􀀹 Đại khái thì trí tuệ minh mẫn

􀀹 Học chóng hiểu

􀀹 Khéo chân tay

􀀹 Nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quí sự lễ phép,

mến điều đạo đức: lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, làm 5 đạo thường cho sự ăn ở.

b> Nhược điểm của người Việt nam

b1> Nền tảng dân trí thấp.

b2> Người Việt không ham đọc sách

Người Việt hiếu học ư, cũng hiếu học đấy, nhưng vẫn chỉ là một số nào đó, một số

lớn vẫn ít học, cho là nghề dạy nghề, tức tùy tiện tới đâu hay tới đó. Mà đa số trong số

hiếu học ấy vẫn mang nặng tinh thần từ chương, quan lại, trọng bằng cấp từ ngàn xưạ.

Họ học để tìm sự giầu có, phong lưu cho bản thân và gia đình hơn là giúp đời. Họ được

gọi là trí thức, nhưng chỉ biết tri thức chuyên môn, hầu như họ sống cách biệt, không

dính gì tới đại đa số đồng hương mà họ cho là thấp kém. Kiến thức tổng quát của họ là

một mớ hời hợt, thường có được là qua những buổi trà dư tửu hậu, chứ không qua sách

vở nghiêm túc. Nói chi tới dân thường, có nhiều người cả năm không mua một cuốn

sách, một tờ báọ. Họ chỉ thích nghe lóm và chỉ đọc sách báo khi có ai đó mua thì mượn

đọc ké thôi. Người mình lại suy nghĩ thiếu khoa học nên dễ tin, đọc một bản tin trên

báo hay nghe truyền miệng mà đã tin, nên dễ bị kẻ xấu lừa .

Khi trả lời phỏng vấn của đài BBC ngày 2/3/2005, nhà phê bình văn học Vương Trí

Nhàn ở Hà Nội, Biên Tập Viên nhà xuất bản Hội Nhà Văn đã nói: "Cứ nói người dân

mình thích đọc sách và ham học lắm, nhưng tôi có cảm tưởng không phải như thế. Thực

ra, dân mình mê khoa cử, kiếm chút bằng để kiếm ăn. Sách in ra đa số nhận rất ít phản

ứng... Việc đọc sách chưa được xã hội hóa, hàng tháng không có thông tin về sách mới

ra, không giới thiệu, không phản hồi, không thống kê, giới viết và đọc không hội”.

http://www.ebook.edu.vn

Xây dựng và thay đổi văn hoá doanh nghiệp by Ngo QuangThuat

Version 1.0 14 /109

Vậy người Việt bị thua kém, tụt hậu vì những khâu nào. Tại sao đa số người Việt

mua thực phẩm là món ăn vật chất hàng ngày, có thể mua nhạc hàng tháng để giải trí

mà có khi cả năm mới mua một cuốn sách là món ăn tinh thần? Tại sao, người Việt dù

có 2 triệu ở hải ngoại hay 80 triệu ở quốc nội, mỗi tựa sách (đầu sách) cũng chỉ in trung

bình khoảng 1.000 cuốn? Như vậy người Việt có thực sự chăm tìm tòi, học hỏi không?

Nếu bảo rằng sách đắt thì số người Việt tới thư viện sao cũng không cao.

Nói chung, không có dân tộc nào tiến mạnh mà sách vở lại nghèo nàn. Bởi chính

sách vở là kho kiến thức, làm nền tảng để phát triển. Người Nhật tiến mạnh được là nhờ

họ biết tích lũy kinh nghiệm. Người đi trước khi học hỏi, họ ghi chép rất cẩn thận, sau

này nhiều người trong số đó viết sách để lại cho người đi sau và cứ thế. Có những

người Việt giỏi, nhưng không chịu khó viết sách để lại, nếu người ấy mất đi thì bao

nhiêu kinh nghiệm tích lũy hàng mấy chục năm cũng mất theo luôn, thật là uổng phí.

Hơn nữa, ai cũng rõ, nếu hiểu biết chỉ được thu thập thuần bằng kinh nghiệm chưa hẳn

đã là chính xác và phổ quát, lúc viết sách, người viết sẽ phải tham khảo rất nhiều, khi

đó, từ các suy nghĩ cho tới dữ kiện mới dần dần được hoàn chỉnh hơn.

b3> Tính cộng đồng của người Việt trong thời chiến cao nhưng trong thời bình lại

thấp.

Cộng đồng dân tộc Việt -qua nhiều thiên niên kỷ, dân tộc Việt đã hình thành và tự

khẳng định qua hai quá trình lịch sử tiến triển song song: quá trình chung đúc các tộc

người gốc Môngôlôit và Nêgrôit ở bên trong, quá trình tiếp biến văn hóa với các nền

văn hóa từ ngoài vào (acculturation).

Trong những yếu tố đó, yếu tố so sánh tính cá thể/tính cộng đồng

(individualism/collectivism) có tầm quan trọng đặc biệt. Hofstede xếp Bắc Mỹ và Tây

Âu vào loại văn hóa đậm tính cá thể, các nước châu á, châu Phi và Nam Mỹ vào loại

đậm tính cộng đồng.

Do địa lý, lịch sử, người Việt đã phải sớm tập hợp nhau chống thiên tai và ngoại

xâm, nên tính cộng đồng cao. Tính cộng đồng này, qua hàng nghìn năm, được nuôi

dưỡng bởi nhiều giá trị văn hóa tạo ra những truyền thống gắn bó người dân. Có những

yếu tố văn hóa phi vật thể, như một nhà nghiên cứu Nhật nhận định: giống như gió;

chúng ta sống trong gió nhưng không nhìn thấy gió.

http://www.ebook.edu.vn

Xây dựng và thay đổi văn hoá doanh nghiệp by Ngo QuangThuat

Version 1.0 15 /109

"Tính cộng đồng của người Việt", hiểu theo nghĩa rộng, đó là ý thức và tình cảm

gắn bó người tộc Việt với nhau (tức là tính cộng đồng dân tộc Việt), là hệ thống tư

tưởng yêu nước (Trần Văn Giầu). Theo nghĩa hẹp của bộ môn nhân học văn hóa

(cultural anthropology), tính cộng đồng chỉ sự gắn bó với từng nhóm trong cộng đồng

dân tộc lớn... (in-group: gia đình, thân tộc, tôn giáo...).

Tuy nhiên trong thời gian gần đây, tính cộng đồng của người Việt đang bị thách

thức. Chúng ta có hai triệu người Việt nam ở nước ngoài, số lượng kiều hối hàng năm

gởi về hàng tỷ USD, nhưng không được như người Hoa, chúng ta có rất ít công ty tiếng

tăm của người Việt ở hải ngoại. Trở lại trong nước, nhà nước đang hô hào cổ phần hoá,

liên kết doanh nghiệp, nhưng mọi việc đều tiến triển rất chậm hoặc trên hình thức. Rõ

ràng tính cộng đồng của người Việt đang bị thách thức.

b.4> Tính tôn trọng pháp luật của người Việt nam của chúng ta còn rất kém.

Nay đã là đầu thế kỷ 21, thử nhìn việc lưu thông ở các thành phố lớn Việt Nam xem.

Thật là loạn không đâu bằng. Người ngoại quốc nào đến Việt Nam cũng sợ khi phải hòa

mình vào dòng xe cộ đó, và nhất là khi băng qua đường. Tỷ lệ tai nạn xẩy ra rất cao, ai

cũng ta thán, thế mà bao năm qua vẫn mạnh ai nấy chạy, mạnh ai nấy đị . Những ngã

năm, ngã bảy xe đông nghẹt mà hầu như không chia làn đường, nhiều nơi không có bệ

tròn để đi vòng, không cảnh sát hướng dẫn lưu thông, Từ mọi phía xe cứ đổ dồn thẳng

vào rồi mạnh ai người nấy tìm đường tiến lên. Đã cấm đốt pháo được mà sao tệ nạn lưu

thông đầy rẫy, mỗi một chuyện cỡi xe gắn máy phải đội nón an toàn đã bao năm qua

vẫn chưa giải quyết được. Sống trong xã hội mà dường như có rất đông người Việt hầu

như không muốn bất cứ một luật lệ nhỏ nào ràng buộc mình. Cứ làm đại, làm càn rồi tới

đâu hay tới đó!?

b.5 > Tính tự giác cũng kém.

Về bản thân người Việt, thân hình nhỏ bé, tuổi thọ thấp, sức lực kém, không bền bỉ,

mà làm việc lại hay qua loa, tắc trách, đại khái nếu không nói là cẩu thả, nên nói chung

năng suất kém.

Chúng ta thử nhìn xem, trong bất cứ một nhà ăn quốc tế như ở các trường Đại Học

có nhiều nhóm người thuộc nhiều nước thì nhóm nào nhỏ người nhất, lộn xộn và ồn ào

nhất có nhiều phần chắc đó là nhóm người Việt. Nhóm này còn thêm cái tật hút thuốc,

http://www.ebook.edu.vn

Xây dựng và thay đổi văn hoá doanh nghiệp by Ngo QuangThuat

Version 1.0 16 /109

xả rác khá bừa bãi nữa. Câu chuyện về người Việt du lịch tại Singapo, khi đến khu du

lịch, người ta hỏi tại sao lại xã rác ra thế này, người quản lý trả lời: có khả năng có

người Việt ở đây.

b.6> Tầm nhìn ngắn:

Lấy một ví dụ là một ngõ nhỏ, mọi người bàn là mỗi nhà nên lùi vào một met để

rộng ngõ, ô tô vào tận nơi, ai cũng hưởng ứng vì như vậy ngõ sẽ rộng hơn, giá cũng cao

hơn, nhưng căn hộ ở đầu ngõ nhất định không chịu, vì cho rằng nếu các hộ trong lùi vào

thì đương nhiên là mình được lợi, thêm nữa mình là đầu hồi thì lùi vào để làm gì, quá

lắm ô tô vẫn đậu trước cửa được. Đó là tầm nhìn ngắn, vì một căn hộ như vậy làm biến

dạng cả khu nhà vốn đã được quy hoạch theo lô, và như vậy giá trị nhà của chính họ

cũng bị giảm đi rất nhiều...

b.7> Tâm lý sành hang ngoại, chuộng hình thức:

Tất nhiên làm ăn cá thể thì người Việt thường chỉ mạnh ở khâu buôn bán nhỏ hoặc

kinh doanh hiệu ăn lấy công làm lời.Ngay khâu buôn bán, người bán thường chú trọng

mua hàng ngoại hạng nhất về bán kiếm lời và người tiêu dùng cũng lo bỏ ra thật nhiều

tiền tìm mua hàng ngoại hạng nhất để khoe mà nhiều khi không biết dùng hoặc không

cần dùng tới! Tại sao lại chuộng "hàng ngoại" đến như vậy? Hàng hóa ở Việt Nam ngày

nay khá nhiều, nhưng người Việt không tự sản xuất lấy được khoảng 10% trong cấu

thành sản phẩm đó. "Sản xuất" nếu có, "hàng nội" nếu có, thực ra chỉ là đốt giai đoạn,

dùng máy ngoại quốc rồi nhập vật liệu và làm gia công. Sau này, khi máy hư hỏng thì

lại mua máy mới, không dần dần tự chế máy thay thế như người Nhật hay Hoa được.

b.8>Tuy vậy, vẫn hay có tính khôn vặt, cũng có khi qủy quyệt, và hay bài bác chế nhạo.

Thường thì nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn có sự hòa bình, nhưng mà đã đi trận mạc

thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật. Người mình phần đông thường ranh vặt, qủy

quyệt, bộ tịch lễ phép mà hay khinh khi nhạo báng. Tâm địa nông nổi, khoác lác, hiếu

danh.

http://www.ebook.edu.vn

Xây dựng và thay đổi văn hoá doanh nghiệp by Ngo QuangThuat

Version 1.0 17 /109

c> Một số biện pháp xây dựng văn hóa con người Việt:

1- Khơi dậy tinh thần yêu nước nồng nàn, tinh thần bất khuất cao độ, khi thật cần thì

nhiều người sẽ sẵn sàng hy sinh vì nước, tuy vậy, như một thân hữu đã nói, vẫn còn rất

nhiều người “quá tận tụy với gia đình mà quá thờ ơ với đất nước”. Những người đó

sống chỉ biết mình ta, hay gia đình ta, hầu như không bao giờ nhúng tay vào việc chung

nào!

2- Tinh thần yêu thương, đùm bọc trong gia đình đáng được đề cao, đây là nền tảng của

xã hội Việt Nam, tuy nhiên, cần có tầm nhìn rộng ra xã hội và tình cảm cần thăng bằng

với lý trí.

3- Tình tương lân, tương trợ bạn bè khá chí tình, nhưng cũng dễ đi đến thiên trọng

không khách quan, không công bằng. Dễ đi tới đần óc bè phái, địa phương, tôn giáo.

Cần nghĩ đến cái lợi lớn chung hơn là cái lợi nhỏ cục bộ.

4. Tình đồng bào rất thắm thiết, nhưng cũng cần mở rộng ra thành tình nhân loại, giúp

đỡ các dân tộc kém may mắn hơn khi cần.

5- Tinh thần đoàn kết cùng lo việc lớn còn kém, nếu chỉ “đoàn kết khi thật cần đến

nhau” như trong truyện Lạc Long Quân và bà Âu Cơ thì vẫn còn lỏng lẻo, vì nguyên

chuyện khi nào được coi là cần cũng có thể có nhiều ý kiến khác nhau, thành chia rẽ.

Nếu luôn luôn tôn trọng, gìn giữ tinh thần đoàn kết thì tốt hơn. Phải cố gắng loại trừ

tinh thần hẹp hòi của phe phái, tôn giáo, chủng tộc, địa phương… Nên tranh đua với

người ngoài hơn là tranh giành nhau.

6- Do bản năng sinh tồn trong môi trường bất ổn, có tinh thần tự lập và thích ứng cao,

nhưng ngắn hạn. Về chính trị, thường có óc lãnh tụ, hẹp hòi, thiếu tinh thần sinh hoạt

dân chủ, công bằng và tôn trọng luật pháp...

7- Tinh thần học hỏi khá cao, nhưng còn nặng thói từ chương, khoa bảng, bàn xuông,

do đó, cần đi sâu vào thực dụng, cần tri-hành hợp nhất. Cần thay tinh thần chăm học để

thi lấy bằng cấp hầu được yên thân bằng tinh thần dấn thân giúp đời. Cần đẩy mạnh óc

nghiên cứu, tập tính ghi chép (thay vì chỉ dùng trí nhớ sẽ dễ quên và dễ nhầm lẫn), biên

soạn, biên khảo, viết và đọc nhiều sách hơn. Cần mở rộng kiến thức tổng quát, thay vì

chỉ học có sách vở trường sở. Người Việt khéo bắt chước, nhưng thường chỉ dừng lại ở

mức 60-70%, không lên 80-90% như người Hoa hay vượt hơn như người Nhật.

http://www.ebook.edu.vn

Xây dựng và thay đổi văn hoá doanh nghiệp by Ngo QuangThuat

Version 1.0 18 /109

8- Tinh thần dấn thân, mạo hiểm, khai phá, sáng tạo vẫn còn rất giới hạn, cần dồn nỗ

lực đẩy mạnh thêm lên. Những người tiên phong tốt có thể kéo cả quần chúng hay dân

tộc đi theo. Có như thế quốc gia mới tiến nhanh được.

9- Người Việt lạc quan, vui tính, hay cười đùa, hòa nhã hay “chín bỏ làm mười”…

nhưng cũng đôi khi vì vậy mà làm việc thiếu nghiêm chỉnh. Theo ghi nhận của chúng

tôi, trong tiếng Việt có đến khoảng 500 từ ngữ về cười (có lẽ nhiều nhất thế giới), trong

khi chỉ có khoảng 30 từ ngữ về khóc.

10- Cần sớm loại bỏ tinh thần làm việc đại khái, tùy tiện, thiếu trách nhiệm, thiếu kế

hoạch hay kiểu đầu voi đuôi chuột, chiếu lệ, không chính xác, không đúng giờ, không

nghiêm chỉnh giữ lời hứa hay cam kết. Cần đề cao tinh thần thượng tôn luật pháp dân

chủ, coi đó là riềng mối duy trì trật tự xã hội. Càng yếu kém về kỹ thuật, càng thiếu tài

chính, càng phải bù lại bằng cách lấy chữ tín làm đầu.

11- Cần thoát ra khỏi cung cách làm ăn theo quy mô cò con, cá nhân hay gia đình, dấu

nghề... mà sớm tiến tới tập đoàn nhỏ, rồi tập đoàn lớn, từ đó mới tăng nhanh năng suất

được. Phải đẩy mạnh óc thương mại, quản lý khoa học… có tầm nhìn thị trường rộng

lớn, từ gia đình ra xã hội, từ địa phương ra toàn quốc, từ toàn quốc tới toàn thế giới.

12- Tiến lên tinh thần hoạt động xí nghiệp, làm chủ cả dây chuyền từ vật liệu đến sản

xuất, đến tiếp thị, đến tái biến chế để bảo vệ môi sinh…

13- Tính mê tín dị đoan như lên đồng, đốt hàng mã, một thời bị nhà cầm quyền ngăn

cấm, nay lại có khuynh hướng phát triển mạnh. Làng Đông Hồ nổi tiếng với tranh mộc

bản, nhưng chỉ thực sự phát lên nhờ làm hàng mãõ.

14- Tính đổ thừa, không nhận trách nhiệm, từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn. Đa số ngườ__________i

Việt cho rằng sở dĩ ngày nay Việt Nam yếu kém là vì chiến tranh, vì , vì Trung Hoa,

Pháp Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, ... vì lãnh đạo, mà ít khi nào nói vì mình. Sinh hoạt của

người Việt ở các nước Âu-Mỹ ngày nay chưa dân chủ, chưa nghiêm chỉnh, chưa đúng

giờ... thì không thể đổ thừa tại ai khác.

15- Cần lưu ý là người việt thân hình nhỏ và tuổi thọ chỉ trung bình (nam 63 và nữ 67,

trong khi Nhật Bản với nam 78,4 và nữ 85,3), việc thể xác cao lớn hơn và tuổi thọ kéo

dài hơn tỷ lệ thuận với sự lưu ý hơn về vệ sinh và dinh dưỡng. Sức khỏe và tuồi thọ

đương nhiên là yếu tố quan trọng trong việc tạo dựng hạnh phúc cá nhân và phát triển

quốc gia. Không có gì là phi lý cảoe khi người ta vẫn ví “sức khỏe là vàng”.

http://www.ebook.edu.vn

Xây dựng và thay đổi văn hoá doanh nghiệp by Ngo QuangThuat

Version 1.0 19 /109

2.0 So sánh phong cách ứng xử phương đông và phương tây:

Edward Hall đưa ra khái niệm hai loại hình văn hóa: loại hình văn hóa với giao tiếp

có bối cảnh cao (high level context communication culture) và loại hình văn hóa giao

tiếp có bối cảnh thấp (low level context communication culture). Loại hình thứ nhất phù

hợp với những nền văn hóa đậm tính cộng đồng thiên về cảm xúc, thơ mộng, trực giác,

tổng hợp, truyền thống. Loại hình thứ hai đặc trưng cho các nền văn hóa đậm tính cá

thể thiên về logic, lý trí, phân tích.

Không đi sâu vào lý luận, ta có thể xếp văn hóa Việt vào loại hình văn hóa đậm tính

cộng đồng. Cũng phải nhắc lại là khái niệm tính cộng đồng này của nhân học văn hóa

chỉ sự gắn bó với những nhóm (in-group): như gia đình, làng xã, tổ chức xã hội, tôn

giáo... trong cộng đồng dân tộc lớn, với sự tin tưởng là sẽ được những nhóm ấy che chở

cho sự gắn bó ấy.

Tiêu chí Phương đông Phương tây

Nhận thức Cảm tính, người phương đông

suy đoán một cách cảm tính, mơ

hồ, nói cách khác là khó định

lượng thiên về hay – dở, may –

không may. Thiên về đạo đức

Lý tính, rõ rang. Thiên về pháp

trị, mang tính đúng sai, phải –

trái.

Tính cách Trầm tĩnh, phòng thủ, giấu bài,

khó chia sẽ

Năng động, sôi nổi, khám phá,

tấn công

Quan điểm

về cái tôi

Đề cao sự tồn tại, hướng nội Đề cao sự phát triển, đấu tranh,

hướng ngoại

Sự đấu tranh Đề cao sự bảo tồn, mang tính

trung dung

Đề cao kết quả, tìm giải pháp đi

đến sự hợp lý

Mối quan hệ Đề cao cộng đồng Đề cao yếu tố cá nhân

http://www.ebook.edu.vn

Xây dựng và thay đổi văn hoá doanh nghiệp by Ngo QuangThuat

Version 1.0 20 /109

PHẦN II VĂN HÓA DOANH NGHIỆP

2.4 Khái niệm Văn hoá doanh nghiệp:

Mọi tổ chức đều có văn hóa và những giá trị độc đáo riêng của nó. Hầu hết các tổ

chức đều không tự ý thức là phải cố gắng để tạo ra một nền văn hóa nhất định của

mình. Văn hóa của một tổ chức thường được tạo ra một cách vô thức, dựa trên những

tiêu chuẩn của những người điều hành đứng đầu hay những người sáng lập ra tổ chức

đó.

E.Heriôt từng nói: "Cái gì còn lại khi tất cả những cái khác bị quên đi - cái đó là văn

hoá". Ðiều đó khẳng định rằng, văn hoá doanh nghiệp (VHDN) là một giá trị

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net