XÂY DỰNG VÀ THAY ĐỔI VĂN HOÁ DOANH NGHIỆP
Văn hoá đứng giữa tự nhiên và văn minh. Tính nhân sinh chưa có hoặc quá ít thì
thuộc về tự nhiên. Tính nhân sinh (nhân tạo) quá nhiều thì thuộc về văn minh. Khi tính
nhân sinh có liều lượng thì thuộc về văn hoá.
Văn hoá còn phân biệt với văn minh ở tính giá trị, tính dân tộc, đặc trưng khu vực
và tổ chức xã hội.
c) Trên khía cạnh giá trị
http://www.ebook.edu.vn
Xây dựng và thay đổi văn hoá doanh nghiệp by Ngo QuangThuat
Version 1.0 12 /109
Trên bình diện giá trị, văn hóa được phân biệt với Tập hợp giá trị và Phản văn hoá.
Văn hóa phân biệt với tập hợp giá trị là nhờ có tính hệ thống. Một tập hợp giá trị
thiếu tính hệ thống thì vẫn đã thuộc văn hoá rồi, nhưng do rời rạc, không có liên hệ với
nhau nên nó chưa trở thành được một đối tượng (một nền) văn hoá riêng biệt.
Văn hóa phân biệt với phản văn hoá là nhờ tính giá trị. Phản văn hoá không phải là
không có chất văn hoá, không có tính giá trị, mà là ở chỗ tính giá trị của nó có thể bộc
lộ trong một toạ độ văn hoá khác. Một sự vật, hiện tượng có thể có giá trị trong hệ toạ
độ này, nhưng lại là phản văn hoá trong một hệ toạ độ khác.
Như vậy, việc một tập hợp giá trị, một phản văn hoá có là một (nền) văn hoá hay
không là do các mối quan hệ của chúng quyết định.
1.5 Đặc điểm của văn hoá và con người Việt nam:
(Những đánh giá này đã được tham khảo từ một số nhà nghiên cứu, đề quý vị thảo luận,
không mang tính chính thức).
1.0.0 Một số yếu tố của lịnh sử ảnh hưởng đế văn hoá Việt nam:
Nền sản xuất nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, tính chất khép kín, thô sơ.
Chịu 1000 năm phong kiến phương bắc, 100 năm dưới ách đô hộ của Pháp.
2 cuộc chiến tranh tàn phá, hội chứng của chiến tranh để lại là rất lớn.
Sự phân chia văn hóa giữa ba miền là rất lớn.
Những tư tưởng, phong cách văn hóa phương tây tràn vào Việt nam cũng như một
đội ngũ tri thức VN ở nước ngoài đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn hoá Việt nam
Nền kinh tế đất nước còn ảnh hưởng rất lớn từ thời bao cấp.
Có sự phân hoá rất lớn về nhận thức của hai thế hệ.
2.0.0 Ưu và nhược điểm của người Việt nam:
a> Ưu điểm của người Việt nam
Tương thân tương ái
http://www.ebook.edu.vn
Xây dựng và thay đổi văn hoá doanh nghiệp by Ngo QuangThuat
Version 1.0 13 /109
Chịu khó
Đoàn kết trong khó khăn.
Đại khái thì trí tuệ minh mẫn
Học chóng hiểu
Khéo chân tay
Nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quí sự lễ phép,
mến điều đạo đức: lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, làm 5 đạo thường cho sự ăn ở.
b> Nhược điểm của người Việt nam
b1> Nền tảng dân trí thấp.
b2> Người Việt không ham đọc sách
Người Việt hiếu học ư, cũng hiếu học đấy, nhưng vẫn chỉ là một số nào đó, một số
lớn vẫn ít học, cho là nghề dạy nghề, tức tùy tiện tới đâu hay tới đó. Mà đa số trong số
hiếu học ấy vẫn mang nặng tinh thần từ chương, quan lại, trọng bằng cấp từ ngàn xưạ.
Họ học để tìm sự giầu có, phong lưu cho bản thân và gia đình hơn là giúp đời. Họ được
gọi là trí thức, nhưng chỉ biết tri thức chuyên môn, hầu như họ sống cách biệt, không
dính gì tới đại đa số đồng hương mà họ cho là thấp kém. Kiến thức tổng quát của họ là
một mớ hời hợt, thường có được là qua những buổi trà dư tửu hậu, chứ không qua sách
vở nghiêm túc. Nói chi tới dân thường, có nhiều người cả năm không mua một cuốn
sách, một tờ báọ. Họ chỉ thích nghe lóm và chỉ đọc sách báo khi có ai đó mua thì mượn
đọc ké thôi. Người mình lại suy nghĩ thiếu khoa học nên dễ tin, đọc một bản tin trên
báo hay nghe truyền miệng mà đã tin, nên dễ bị kẻ xấu lừa .
Khi trả lời phỏng vấn của đài BBC ngày 2/3/2005, nhà phê bình văn học Vương Trí
Nhàn ở Hà Nội, Biên Tập Viên nhà xuất bản Hội Nhà Văn đã nói: "Cứ nói người dân
mình thích đọc sách và ham học lắm, nhưng tôi có cảm tưởng không phải như thế. Thực
ra, dân mình mê khoa cử, kiếm chút bằng để kiếm ăn. Sách in ra đa số nhận rất ít phản
ứng... Việc đọc sách chưa được xã hội hóa, hàng tháng không có thông tin về sách mới
ra, không giới thiệu, không phản hồi, không thống kê, giới viết và đọc không hội”.
http://www.ebook.edu.vn
Xây dựng và thay đổi văn hoá doanh nghiệp by Ngo QuangThuat
Version 1.0 14 /109
Vậy người Việt bị thua kém, tụt hậu vì những khâu nào. Tại sao đa số người Việt
mua thực phẩm là món ăn vật chất hàng ngày, có thể mua nhạc hàng tháng để giải trí
mà có khi cả năm mới mua một cuốn sách là món ăn tinh thần? Tại sao, người Việt dù
có 2 triệu ở hải ngoại hay 80 triệu ở quốc nội, mỗi tựa sách (đầu sách) cũng chỉ in trung
bình khoảng 1.000 cuốn? Như vậy người Việt có thực sự chăm tìm tòi, học hỏi không?
Nếu bảo rằng sách đắt thì số người Việt tới thư viện sao cũng không cao.
Nói chung, không có dân tộc nào tiến mạnh mà sách vở lại nghèo nàn. Bởi chính
sách vở là kho kiến thức, làm nền tảng để phát triển. Người Nhật tiến mạnh được là nhờ
họ biết tích lũy kinh nghiệm. Người đi trước khi học hỏi, họ ghi chép rất cẩn thận, sau
này nhiều người trong số đó viết sách để lại cho người đi sau và cứ thế. Có những
người Việt giỏi, nhưng không chịu khó viết sách để lại, nếu người ấy mất đi thì bao
nhiêu kinh nghiệm tích lũy hàng mấy chục năm cũng mất theo luôn, thật là uổng phí.
Hơn nữa, ai cũng rõ, nếu hiểu biết chỉ được thu thập thuần bằng kinh nghiệm chưa hẳn
đã là chính xác và phổ quát, lúc viết sách, người viết sẽ phải tham khảo rất nhiều, khi
đó, từ các suy nghĩ cho tới dữ kiện mới dần dần được hoàn chỉnh hơn.
b3> Tính cộng đồng của người Việt trong thời chiến cao nhưng trong thời bình lại
thấp.
Cộng đồng dân tộc Việt -qua nhiều thiên niên kỷ, dân tộc Việt đã hình thành và tự
khẳng định qua hai quá trình lịch sử tiến triển song song: quá trình chung đúc các tộc
người gốc Môngôlôit và Nêgrôit ở bên trong, quá trình tiếp biến văn hóa với các nền
văn hóa từ ngoài vào (acculturation).
Trong những yếu tố đó, yếu tố so sánh tính cá thể/tính cộng đồng
(individualism/collectivism) có tầm quan trọng đặc biệt. Hofstede xếp Bắc Mỹ và Tây
Âu vào loại văn hóa đậm tính cá thể, các nước châu á, châu Phi và Nam Mỹ vào loại
đậm tính cộng đồng.
Do địa lý, lịch sử, người Việt đã phải sớm tập hợp nhau chống thiên tai và ngoại
xâm, nên tính cộng đồng cao. Tính cộng đồng này, qua hàng nghìn năm, được nuôi
dưỡng bởi nhiều giá trị văn hóa tạo ra những truyền thống gắn bó người dân. Có những
yếu tố văn hóa phi vật thể, như một nhà nghiên cứu Nhật nhận định: giống như gió;
chúng ta sống trong gió nhưng không nhìn thấy gió.
http://www.ebook.edu.vn
Xây dựng và thay đổi văn hoá doanh nghiệp by Ngo QuangThuat
Version 1.0 15 /109
"Tính cộng đồng của người Việt", hiểu theo nghĩa rộng, đó là ý thức và tình cảm
gắn bó người tộc Việt với nhau (tức là tính cộng đồng dân tộc Việt), là hệ thống tư
tưởng yêu nước (Trần Văn Giầu). Theo nghĩa hẹp của bộ môn nhân học văn hóa
(cultural anthropology), tính cộng đồng chỉ sự gắn bó với từng nhóm trong cộng đồng
dân tộc lớn... (in-group: gia đình, thân tộc, tôn giáo...).
Tuy nhiên trong thời gian gần đây, tính cộng đồng của người Việt đang bị thách
thức. Chúng ta có hai triệu người Việt nam ở nước ngoài, số lượng kiều hối hàng năm
gởi về hàng tỷ USD, nhưng không được như người Hoa, chúng ta có rất ít công ty tiếng
tăm của người Việt ở hải ngoại. Trở lại trong nước, nhà nước đang hô hào cổ phần hoá,
liên kết doanh nghiệp, nhưng mọi việc đều tiến triển rất chậm hoặc trên hình thức. Rõ
ràng tính cộng đồng của người Việt đang bị thách thức.
b.4> Tính tôn trọng pháp luật của người Việt nam của chúng ta còn rất kém.
Nay đã là đầu thế kỷ 21, thử nhìn việc lưu thông ở các thành phố lớn Việt Nam xem.
Thật là loạn không đâu bằng. Người ngoại quốc nào đến Việt Nam cũng sợ khi phải hòa
mình vào dòng xe cộ đó, và nhất là khi băng qua đường. Tỷ lệ tai nạn xẩy ra rất cao, ai
cũng ta thán, thế mà bao năm qua vẫn mạnh ai nấy chạy, mạnh ai nấy đị . Những ngã
năm, ngã bảy xe đông nghẹt mà hầu như không chia làn đường, nhiều nơi không có bệ
tròn để đi vòng, không cảnh sát hướng dẫn lưu thông, Từ mọi phía xe cứ đổ dồn thẳng
vào rồi mạnh ai người nấy tìm đường tiến lên. Đã cấm đốt pháo được mà sao tệ nạn lưu
thông đầy rẫy, mỗi một chuyện cỡi xe gắn máy phải đội nón an toàn đã bao năm qua
vẫn chưa giải quyết được. Sống trong xã hội mà dường như có rất đông người Việt hầu
như không muốn bất cứ một luật lệ nhỏ nào ràng buộc mình. Cứ làm đại, làm càn rồi tới
đâu hay tới đó!?
b.5 > Tính tự giác cũng kém.
Về bản thân người Việt, thân hình nhỏ bé, tuổi thọ thấp, sức lực kém, không bền bỉ,
mà làm việc lại hay qua loa, tắc trách, đại khái nếu không nói là cẩu thả, nên nói chung
năng suất kém.
Chúng ta thử nhìn xem, trong bất cứ một nhà ăn quốc tế như ở các trường Đại Học
có nhiều nhóm người thuộc nhiều nước thì nhóm nào nhỏ người nhất, lộn xộn và ồn ào
nhất có nhiều phần chắc đó là nhóm người Việt. Nhóm này còn thêm cái tật hút thuốc,
http://www.ebook.edu.vn
Xây dựng và thay đổi văn hoá doanh nghiệp by Ngo QuangThuat
Version 1.0 16 /109
xả rác khá bừa bãi nữa. Câu chuyện về người Việt du lịch tại Singapo, khi đến khu du
lịch, người ta hỏi tại sao lại xã rác ra thế này, người quản lý trả lời: có khả năng có
người Việt ở đây.
b.6> Tầm nhìn ngắn:
Lấy một ví dụ là một ngõ nhỏ, mọi người bàn là mỗi nhà nên lùi vào một met để
rộng ngõ, ô tô vào tận nơi, ai cũng hưởng ứng vì như vậy ngõ sẽ rộng hơn, giá cũng cao
hơn, nhưng căn hộ ở đầu ngõ nhất định không chịu, vì cho rằng nếu các hộ trong lùi vào
thì đương nhiên là mình được lợi, thêm nữa mình là đầu hồi thì lùi vào để làm gì, quá
lắm ô tô vẫn đậu trước cửa được. Đó là tầm nhìn ngắn, vì một căn hộ như vậy làm biến
dạng cả khu nhà vốn đã được quy hoạch theo lô, và như vậy giá trị nhà của chính họ
cũng bị giảm đi rất nhiều...
b.7> Tâm lý sành hang ngoại, chuộng hình thức:
Tất nhiên làm ăn cá thể thì người Việt thường chỉ mạnh ở khâu buôn bán nhỏ hoặc
kinh doanh hiệu ăn lấy công làm lời.Ngay khâu buôn bán, người bán thường chú trọng
mua hàng ngoại hạng nhất về bán kiếm lời và người tiêu dùng cũng lo bỏ ra thật nhiều
tiền tìm mua hàng ngoại hạng nhất để khoe mà nhiều khi không biết dùng hoặc không
cần dùng tới! Tại sao lại chuộng "hàng ngoại" đến như vậy? Hàng hóa ở Việt Nam ngày
nay khá nhiều, nhưng người Việt không tự sản xuất lấy được khoảng 10% trong cấu
thành sản phẩm đó. "Sản xuất" nếu có, "hàng nội" nếu có, thực ra chỉ là đốt giai đoạn,
dùng máy ngoại quốc rồi nhập vật liệu và làm gia công. Sau này, khi máy hư hỏng thì
lại mua máy mới, không dần dần tự chế máy thay thế như người Nhật hay Hoa được.
b.8>Tuy vậy, vẫn hay có tính khôn vặt, cũng có khi qủy quyệt, và hay bài bác chế nhạo.
Thường thì nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn có sự hòa bình, nhưng mà đã đi trận mạc
thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật. Người mình phần đông thường ranh vặt, qủy
quyệt, bộ tịch lễ phép mà hay khinh khi nhạo báng. Tâm địa nông nổi, khoác lác, hiếu
danh.
http://www.ebook.edu.vn
Xây dựng và thay đổi văn hoá doanh nghiệp by Ngo QuangThuat
Version 1.0 17 /109
c> Một số biện pháp xây dựng văn hóa con người Việt:
1- Khơi dậy tinh thần yêu nước nồng nàn, tinh thần bất khuất cao độ, khi thật cần thì
nhiều người sẽ sẵn sàng hy sinh vì nước, tuy vậy, như một thân hữu đã nói, vẫn còn rất
nhiều người “quá tận tụy với gia đình mà quá thờ ơ với đất nước”. Những người đó
sống chỉ biết mình ta, hay gia đình ta, hầu như không bao giờ nhúng tay vào việc chung
nào!
2- Tinh thần yêu thương, đùm bọc trong gia đình đáng được đề cao, đây là nền tảng của
xã hội Việt Nam, tuy nhiên, cần có tầm nhìn rộng ra xã hội và tình cảm cần thăng bằng
với lý trí.
3- Tình tương lân, tương trợ bạn bè khá chí tình, nhưng cũng dễ đi đến thiên trọng
không khách quan, không công bằng. Dễ đi tới đần óc bè phái, địa phương, tôn giáo.
Cần nghĩ đến cái lợi lớn chung hơn là cái lợi nhỏ cục bộ.
4. Tình đồng bào rất thắm thiết, nhưng cũng cần mở rộng ra thành tình nhân loại, giúp
đỡ các dân tộc kém may mắn hơn khi cần.
5- Tinh thần đoàn kết cùng lo việc lớn còn kém, nếu chỉ “đoàn kết khi thật cần đến
nhau” như trong truyện Lạc Long Quân và bà Âu Cơ thì vẫn còn lỏng lẻo, vì nguyên
chuyện khi nào được coi là cần cũng có thể có nhiều ý kiến khác nhau, thành chia rẽ.
Nếu luôn luôn tôn trọng, gìn giữ tinh thần đoàn kết thì tốt hơn. Phải cố gắng loại trừ
tinh thần hẹp hòi của phe phái, tôn giáo, chủng tộc, địa phương… Nên tranh đua với
người ngoài hơn là tranh giành nhau.
6- Do bản năng sinh tồn trong môi trường bất ổn, có tinh thần tự lập và thích ứng cao,
nhưng ngắn hạn. Về chính trị, thường có óc lãnh tụ, hẹp hòi, thiếu tinh thần sinh hoạt
dân chủ, công bằng và tôn trọng luật pháp...
7- Tinh thần học hỏi khá cao, nhưng còn nặng thói từ chương, khoa bảng, bàn xuông,
do đó, cần đi sâu vào thực dụng, cần tri-hành hợp nhất. Cần thay tinh thần chăm học để
thi lấy bằng cấp hầu được yên thân bằng tinh thần dấn thân giúp đời. Cần đẩy mạnh óc
nghiên cứu, tập tính ghi chép (thay vì chỉ dùng trí nhớ sẽ dễ quên và dễ nhầm lẫn), biên
soạn, biên khảo, viết và đọc nhiều sách hơn. Cần mở rộng kiến thức tổng quát, thay vì
chỉ học có sách vở trường sở. Người Việt khéo bắt chước, nhưng thường chỉ dừng lại ở
mức 60-70%, không lên 80-90% như người Hoa hay vượt hơn như người Nhật.
http://www.ebook.edu.vn
Xây dựng và thay đổi văn hoá doanh nghiệp by Ngo QuangThuat
Version 1.0 18 /109
8- Tinh thần dấn thân, mạo hiểm, khai phá, sáng tạo vẫn còn rất giới hạn, cần dồn nỗ
lực đẩy mạnh thêm lên. Những người tiên phong tốt có thể kéo cả quần chúng hay dân
tộc đi theo. Có như thế quốc gia mới tiến nhanh được.
9- Người Việt lạc quan, vui tính, hay cười đùa, hòa nhã hay “chín bỏ làm mười”…
nhưng cũng đôi khi vì vậy mà làm việc thiếu nghiêm chỉnh. Theo ghi nhận của chúng
tôi, trong tiếng Việt có đến khoảng 500 từ ngữ về cười (có lẽ nhiều nhất thế giới), trong
khi chỉ có khoảng 30 từ ngữ về khóc.
10- Cần sớm loại bỏ tinh thần làm việc đại khái, tùy tiện, thiếu trách nhiệm, thiếu kế
hoạch hay kiểu đầu voi đuôi chuột, chiếu lệ, không chính xác, không đúng giờ, không
nghiêm chỉnh giữ lời hứa hay cam kết. Cần đề cao tinh thần thượng tôn luật pháp dân
chủ, coi đó là riềng mối duy trì trật tự xã hội. Càng yếu kém về kỹ thuật, càng thiếu tài
chính, càng phải bù lại bằng cách lấy chữ tín làm đầu.
11- Cần thoát ra khỏi cung cách làm ăn theo quy mô cò con, cá nhân hay gia đình, dấu
nghề... mà sớm tiến tới tập đoàn nhỏ, rồi tập đoàn lớn, từ đó mới tăng nhanh năng suất
được. Phải đẩy mạnh óc thương mại, quản lý khoa học… có tầm nhìn thị trường rộng
lớn, từ gia đình ra xã hội, từ địa phương ra toàn quốc, từ toàn quốc tới toàn thế giới.
12- Tiến lên tinh thần hoạt động xí nghiệp, làm chủ cả dây chuyền từ vật liệu đến sản
xuất, đến tiếp thị, đến tái biến chế để bảo vệ môi sinh…
13- Tính mê tín dị đoan như lên đồng, đốt hàng mã, một thời bị nhà cầm quyền ngăn
cấm, nay lại có khuynh hướng phát triển mạnh. Làng Đông Hồ nổi tiếng với tranh mộc
bản, nhưng chỉ thực sự phát lên nhờ làm hàng mãõ.
14- Tính đổ thừa, không nhận trách nhiệm, từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn. Đa số ngườ__________i
Việt cho rằng sở dĩ ngày nay Việt Nam yếu kém là vì chiến tranh, vì , vì Trung Hoa,
Pháp Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, ... vì lãnh đạo, mà ít khi nào nói vì mình. Sinh hoạt của
người Việt ở các nước Âu-Mỹ ngày nay chưa dân chủ, chưa nghiêm chỉnh, chưa đúng
giờ... thì không thể đổ thừa tại ai khác.
15- Cần lưu ý là người việt thân hình nhỏ và tuổi thọ chỉ trung bình (nam 63 và nữ 67,
trong khi Nhật Bản với nam 78,4 và nữ 85,3), việc thể xác cao lớn hơn và tuổi thọ kéo
dài hơn tỷ lệ thuận với sự lưu ý hơn về vệ sinh và dinh dưỡng. Sức khỏe và tuồi thọ
đương nhiên là yếu tố quan trọng trong việc tạo dựng hạnh phúc cá nhân và phát triển
quốc gia. Không có gì là phi lý cảoe khi người ta vẫn ví “sức khỏe là vàng”.
http://www.ebook.edu.vn
Xây dựng và thay đổi văn hoá doanh nghiệp by Ngo QuangThuat
Version 1.0 19 /109
2.0 So sánh phong cách ứng xử phương đông và phương tây:
Edward Hall đưa ra khái niệm hai loại hình văn hóa: loại hình văn hóa với giao tiếp
có bối cảnh cao (high level context communication culture) và loại hình văn hóa giao
tiếp có bối cảnh thấp (low level context communication culture). Loại hình thứ nhất phù
hợp với những nền văn hóa đậm tính cộng đồng thiên về cảm xúc, thơ mộng, trực giác,
tổng hợp, truyền thống. Loại hình thứ hai đặc trưng cho các nền văn hóa đậm tính cá
thể thiên về logic, lý trí, phân tích.
Không đi sâu vào lý luận, ta có thể xếp văn hóa Việt vào loại hình văn hóa đậm tính
cộng đồng. Cũng phải nhắc lại là khái niệm tính cộng đồng này của nhân học văn hóa
chỉ sự gắn bó với những nhóm (in-group): như gia đình, làng xã, tổ chức xã hội, tôn
giáo... trong cộng đồng dân tộc lớn, với sự tin tưởng là sẽ được những nhóm ấy che chở
cho sự gắn bó ấy.
Tiêu chí Phương đông Phương tây
Nhận thức Cảm tính, người phương đông
suy đoán một cách cảm tính, mơ
hồ, nói cách khác là khó định
lượng thiên về hay – dở, may –
không may. Thiên về đạo đức
Lý tính, rõ rang. Thiên về pháp
trị, mang tính đúng sai, phải –
trái.
Tính cách Trầm tĩnh, phòng thủ, giấu bài,
khó chia sẽ
Năng động, sôi nổi, khám phá,
tấn công
Quan điểm
về cái tôi
Đề cao sự tồn tại, hướng nội Đề cao sự phát triển, đấu tranh,
hướng ngoại
Sự đấu tranh Đề cao sự bảo tồn, mang tính
trung dung
Đề cao kết quả, tìm giải pháp đi
đến sự hợp lý
Mối quan hệ Đề cao cộng đồng Đề cao yếu tố cá nhân
http://www.ebook.edu.vn
Xây dựng và thay đổi văn hoá doanh nghiệp by Ngo QuangThuat
Version 1.0 20 /109
PHẦN II VĂN HÓA DOANH NGHIỆP
2.4 Khái niệm Văn hoá doanh nghiệp:
Mọi tổ chức đều có văn hóa và những giá trị độc đáo riêng của nó. Hầu hết các tổ
chức đều không tự ý thức là phải cố gắng để tạo ra một nền văn hóa nhất định của
mình. Văn hóa của một tổ chức thường được tạo ra một cách vô thức, dựa trên những
tiêu chuẩn của những người điều hành đứng đầu hay những người sáng lập ra tổ chức
đó.
E.Heriôt từng nói: "Cái gì còn lại khi tất cả những cái khác bị quên đi - cái đó là văn
hoá". Ðiều đó khẳng định rằng, văn hoá doanh nghiệp (VHDN) là một giá trị
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net