Chu Viet Goc Khmer
Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, Cà Mau). Lò có đáy là để tránh
hơi ẩm từ lòng đất rút vào củi lúc đốt lửa.
Kiến trúc lò này cũng thích ứng để sử dụng “đất
cháy” của vùng Cà Mau, khi sử dụng đất cháy, phần rộng
thứ hai được dùng làm nơi hâm đất cho thoát hơi nước
trước khi đưa vào vùng lò đốt (phần rộng thứ nhứt).
Kiến trúc “cà ràng” cũng được thông dụng trong
tất cả những nhà sàn vùng Tân Châu, Châu Đốc..., ở nhà
11
sàn, cái đáy của cà ràng còn giữ vai trò bảo vệ cái sàn
chống hỏa hoạn.
Kiến trúc cà ràng cũng rất thông dụng trên những
chiếc ghe của dân chài lưới, hoặc những ghe có người sống
như nhà lưu động, hoặc nhà hàng lưu động.
Cà ràng là một trong những biểu tượng của văn
hóa hội nhập suốt từ thời khai hoang miền Nam cho tới
những năm 70 của thế kỷ 20.” (8)]
Cà ròn. Khm: karông = một loại bao nhỏ đa dụng, đan
bằng sợi bàng có thể chứa đựng khoảng 20 đến 40 lít, thông
dụng nhứt là cà ròn 1 giạ (40 lít); trong lúc bao “bố tời”
(chữ Việt gốc Quảng Đông) là loại bao lớn (3 giạ, 120 lít)
dùng đựng gạo.
Cầy. Khm: ch-kầy = con chó.
Cồng. Khm: kôông = tên một loại nhạc khí bằng hợp kim
của người Khmer.
Châu Đốc: Xưa kia là tên của một tỉnh. Hiện giờ là một
phần của tỉnh An Giang. Khm: mắt cruk = miệng heo.
Chắc Cà Đao: Tên một con rạch và cũng là tên một chợ
nhỏ (nay là thị trấn An Châu) gần thị xã Long Xuyên, tỉnh
An Giang. Học giả VHS (7), ghi lại hai giải thích là:
- Theo ông Nguyễn văn Đính, thì địa danh Chắc Cà Đao có
thể do chữ Khm chắp kdam (= bắt cua) mà ra vì vùng nầy
xưa kia có nhiều cua.
- Theo nhà văn Sơn Nam (6), Chắc Cà Đao do chữ Prek
Pedao; Prek = rạch; pédao = loại dây mây; rạch có nhiều
dây mây.
Học giả VHS nói ông nghĩ rằng giả thuyết của
Nguyễn văn Đính hợp lý hơn.
Chắc Đốt: Tên một làng thuộc Sóc Trăng. Khm: mo-chap
mo-dott = tay bắt cá tay xỏ cá (vô dây). Vùng nầy có nhiều
cá nên có thành ngữ “mo-chap mo-dott” và dân ta đặt tên
làng Chắc Đốt.
Chông. Khm: chông = cây nhọn làm chướng ngại, hoặc
làm bẩy.
12
Chơn. Khm: chơơng = bên dưới; cũng có nghĩa là cái chơn
hay cái chưn, đi chưn.
Chụm. Khm: chum = gom lại, vây lại quanh một cái gì (ví
dụ chúng nó ngồi chụm lại quanh chiếc chiếu để nói
chuyện riêng).
Duôn hay yuôn: Theo BNL “duôn” là tiếng Ấn Độ có
nghĩa là “man di” để chỉ những người không phải người Ấn.
Những quốc gia chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn như
Kampuchia, Thái, Lào, Mon và Chăm đều dùng “duôn” để
gọi hay chỉ người VN. Có thể họ không hiểu nghĩa của
nguyên ngữ “duôn”; hay có thể hiểu nhưng vẫn dùng.
Cáp duồn. Khm: cắp duôn = chặt người Việt. Ngày xưa
khi Kampuchia đánh nhau với VN, lúc xông trận họ la “cắp
duôn” tức là chém hay chặt người VN (cho chết). Mỗi khi
có cuộc nổi loạn của một “sóc” (xóm làng) người Khmer
chống lại dân Việt, người Việt thường thông báo nhau là
coi chừng bị họ “cáp duồn”. Chữ nầy thông dụng trong
khoảng 1940-50. Pròteh duôn = nước Việt.
Ên: một mình, như câu: Tôi tới đây mình ên, không có ai đi
chung. Khm: êng, hay k-êng. Chữ “ên” rất thông dụng ở
miền Châu Đốc, Rạch Giá.
Ghe chài: ghe có trọng tải lớn. Khm: tuk pokchay. (Đây là
một tiếng Khm rất đặc biệt vì tuk là tiếng Khm = ghe; còn
pokchay = chở đủ thứ, là tiếng Triều Châu đã được Khmer
dùng như là tiếng Khmer. Dân ta dịch chữ tuk ra chữ ghe,
nhưng lại mượn chữ pokchay đọc thành “chài” (7). Theo
Bình Nguyên Lộc (BNL) (1) người Khm còn gọi ghe chài
là thwe.
Hên: may mắn. Khm: hêng (có thể đồng âm đồng nghĩa,
tuy vậy trong bộ tự điển của nhà Văn Hoa Xã Hội và tự
điển trực tuyến không có chữ hên, trong khi đó trong tự
13
điển Việt-Pháp của Đào Đăng Vỹ có chữ này, như vậy
“hên” chắc chắn là từ ngữ của miền Nam, có phải gốc
Khmer hay không thì chưa chắc chắn).
Khèn. Khm: khèn = một loại nhạc khí làm bằng nhiều ống
trúc, dùng hơi để thổi.
Khiên. Khm: khêl = dụng cụ che chở, chống lại gươm
giáo hoặc tên, tránh cho người dùng nó khỏi bị thương.
Khố. Khm: kho-ô = miếng vải nhỏ dùng che giấu bộ
phận sinh dục. Chữ nầy thường dùng cho phái nam: đàn
ông đóng khố. Trên miền cao nguyên VN, đàn ông của một
số bộ lạc dùng khố thay vì quần (và nhiều bộ lạc ở Phi
Châu, đàn ông cũng đóng khố). Ngày xưa, một số đàn ông
VN vì nghèo quá không có tiền mua quần mặc nên phải
đóng khố. Do đó có thành ngữ “khố rách áo ôm”. Trong
văn thơ bình dân VN có truyện “Trần Minh khố chuối”
(trong câu chuyện nầy, Trần Minh là một thơ sinh nhà
nghèo, không có tiền mua vải, phải dùng lá chuối làm khố
mặc). Trong tiếng Việt, khố còn có nghĩa là “vải nịt bụng”
dùng như dây thắt lưng; thí dụ câu “khăn khố chỉnh tề” (3)
Lấp Vò: địa danh thuộc tỉnh An Giang. Khm: srôk tak por
= xóm nước nóng.
Lóc (cá). Khm: trêy rot = một loại cá nước ngọt, có rất
nhiều ở vùng đồng bằng Cửu Long. Còn có nhiều tên khác
nhau như cá chuối, cá quả (Bắc Việt), cá tràu (3). Tên khoa
học của loại cá nầy là “ophiocephalus” (cá đầu rắn, vì đầu
cá có hình giống đầu rắn).
Lọp. Khm: lộp = dụng cụ đan bằng tre, dùng để bắt cá tôm.
Một đầu của lọp có gắn một cái “hom” (dụng cụ đan bằng
tre hình phễu, cá tôm đi vào được nhưng không ra được),
nhiều loại lọp có kết thêm một cái hom ở giữa thân lọp.
Lọp dùng đặt nơi tôm cá di chuyển, trường hợp này không
cần có mồi, những nơi không phải là “đường cá” như ao,
đìa, người ta để mồi vào đáy lọp để nhử tôm cá. Những
14
nhà nông hay ngư phủ ở vùng ĐN–CL đều biết tên dụng cụ
nầy.
Lục. Khm: lục = ông. Dân Việt lại dùng chữ “ông lục” để
chỉ những nhà sư (ông sãi áo vàng) người Kampuchia.
Mặc nưa. Khm: mắc khưa = loại cây nhỏ, trái nhỏ bằng
đầu ngón tay, hột chứa nhiều hóa chất dùng nhuộm quần áo
rất tốt.
Mẻ. Khmer: khméh = tên một loại chất chua do cơm
nguội để lâu, lên men rượu và thành men giấm, dùng nấu
canh chua.
Mẹc. Khm: mek = ông; chức danh cao cấp nhất trong phẩm
trật sư sãi Kampuchia. (VN: Ông Lục, Ông Mẹc. Trong
tỉnh Trà Vinh có ngôi chùa Khmer mà dân Việt quen gọi là
Chùa Ông Mẹc.)
Mùng. Khm: mung = dụng cụ bằng vải thưa và mỏng,
dùng chặn muỗi khỏi cắn người ngủ bên trong. Ca dao:
Trống treo ai dám đánh thùng
Bậu không, ai dám giở mùng chun vô.
Hoặc: Khoác mùng ra thấy mùng không
Gối loan để đó lệ hồng tuôn rơi.
(Có thể nói chắc chắn mùng là từ ngữ của miền
Nam, được sử dụng rất lâu đời, nhưng ai vay mượn của ai
chưa thể xác định được. Khách quan mà nói, mùng là một
kiến trúc bằng vải, thuở nguyên thủy của cái mùng có thể
do người Việt sáng chế, vì người Khmer đã có cái nóp) (8).
Mỹ Lồng: địa danh và tên sông thuộc Tiền Giang (Kiến
Hòa). Khm: Srok Mi Lôn = xứ, xóm của nàng tên Lôn.
Ná. Khm: sna = dụng cụ bắn chim hình chữ V có cán,
buộc dây thun, dùng bắn viên đạn tròn ra (giàn thun). Tục
ngữ VN có câu “đặng chim bẻ ná, đặng cá quên nôm”. Ca
dao có câu:
Tiếc công chuốt ná lau tên
Nhạn bay về đền công uổng danh hư.
15
Phum. Khmer: phuum = xóm hay làng có cây.
Sa Đéc: Tên một tỉnh ngày xưa. Khm: phsar dèk = chợ
(bán) sắt.
Sầu riêng. Khm: turen. Tên một loại cây/trái đặc sản
miền Nam. Tên loại cây/trái này đã được đưa vào danh
sách thảo mộc thế giới năm 1776 cho cả một chi (Genus),
Durio, với cái tên Durio zibethinus L. Dù rằng Durio
zibethinus L. rất có thể gốc từ tiếng Nam Dương (Djoerian),
nhưng chiếc cầu từ Djoerian sang Sầu riêng có thể là từ
gốc Khmer “Turen”. Từ ngữ để gọi cây/trái sầu riêng hầu
hết các nước trên thế giới có giọng đọc tương tự như tiếng
Anh/Pháp/Đức/Tây Ban Nha (Spain): Durian (8).
Sóc Trăng: Tên một tỉnh. Khm: Srok Khlẳn (khléang) =
Xóm kho bạc. Khi vùng nầy còn thuộc Thủy Chân Lạp,
người Khmer có lập một kho chứa vàng và bạc ở đây.
Soi rạp hay Lôi lạp: tên cửa biển có nhiều mũi đất, thuộc
quận Tân Hưng, tỉnh Gò Công. Khm: Péam prêk chroy
phkẩm. Theo ông Vương Hồng Sển, Péam prek = cửa biển,
chroy = mũi đất, và phkham = xâu chuổi.
Sọt (sọt rác): giỏ đựng rác hay giấy vụn, làm bằng bằng tre
đan. Khmer: kksok.
Tầm phong luông hay Tầm phong long là một địa danh
thuộc Châu Đốc. Khm: Kampong luông (hay Kompong
luon). Kampong = vũng nước, luông (hay luon) = vua.
Có nghĩa bờ sông có vua đến (“bến vua” hay “bến ngự”).
Ngày xưa nơi nào vua Kampuchia ghé ghe (thuyền) nghỉ
ngơi, người Khmer gọi nơi đó là Kampong Luông. Về địa
lý, địa danh Kampong luông hay Tầm phong long là một
vùng rất rộng trải dài từ Vĩnh Long - Sa Đéc đến khỏi Long
Xuyên - Châu Đốc, sang đất Kampuchia ngày nay. Vào thế
kỷ 18, vua Kp dâng vùng đất khoảng An Giang ngày nay
(Long Xuyên-Châu đốc) cho VN. Vì vậy một vùng đất gần
16
biên giới VN/Kp có tên là Tầm phong long. Sau nay Tầm
phong long đổi thành Hồng ngự, tên một quận thuộc tỉnh
An Giang.
[Trong quyển Sài Gòn Tạp pín lù (một quyển sách
kể nhiều chuyện liên quan đến Sài Gòn ngày xưa, không
phải là sách nghiên cứu) ông VHS có kể rằng vùng đất
quanh cột cờ Thủ Ngữ (mũi đất ở ven sông Sài Gòn, có biệt
danh là Point des blagueurs = mũi tán dóc) ngày xưa còn
gọi là “Kampong Luông” vì “ngày trước phó vương Đàn
Thổ thường ra tắm sông nơi nầy” (trang 392) (xưa dân ta
gọi người Khmer là Thổ hoặc Đàn Thổ hay Đàng Thổ (?).
Nếu chuyện nầy đúng, thì địa danh Tầm phong long phải
bắt đầu từ vùng Sài Gòn, chớ không phải từ Vĩnh Long.]
Tha la. Khmer: sala = chòi nhỏ ngoài đồng.
Thau lau (cây). Khm: sralau = loại cây quí, gỗ màu trắng
rất cứng nhưng dòn.
Thốt nốt. Khm: Thnốt = thực vật thuộc họ dừa, trái cho
mật dùng làm đường. Đường thốt nốt là một đặc sản nổi
danh của Kp.
Tra (cá). Khm: trêy pra = tên loại cá nước ngọt có da láng.
Cá tra có loại lưng đen bụng trắng (cá tra đen) và loại lưng
xám bụng trắng (cá tra xám).
[Cả hai loại đều rất lớn con, những con cá tra bắt
được vùng Vàm Nao (chỗ thông nhau của Tiền-Hậu Giang)
có trọng lượng 150 đến 200 kg (cá tra đen) và 70 đến 150
kg (cá tra xám). Về sau người ta đặt tên Việt cho một loại
cá này là “cá bông lau”. Giống cá tra đen dễ nuôi nên
được nuôi xuất khẩu. Bất hạnh trong vụ đặt tên mới này ở
chỗ ta đã có một loại cá mang tên đó từ xưa, vì trên lưng
chúng có sọc tương tợ hình bông lau. Do đó, cá bông lau
trở thành cá bông và cá tra đen trở thành cá bông lau (8) ]
Trà Ngoa: tên một ngôi chùa ở Cần Thơ. Khm: vat svày =
chùa xoài.
17
Úc: tên một phụ chi cá sông thuộc họ cá có râu, có 3 ngạnh
(2 ngạnh mang và ngạnh lưng). Khm: úc; trêy úc = cá úc.
[(Cá úc: Cá có râu, 3 ngạnh sống gần mặt nước
gồm cá lăng và cá chốt. Cá có râu 3 ngạnh sống ở đáy
sông gồm cá ngác và các loại cá úc. Trong nhóm (phụ chi)
cá úc, lớn con nhứt là cá úc nghệ, kế tới là cá úc dừa, nhỏ
con nhứt là cá úc chuột (bây giờ là cá chốt chuột). Cá úc
nghệ màu vàng nghệ, nhiều xương, có trứng bằng đầu đũa
cũng màu vàng nghệ (to hơn golden caviar). Người ta
phẩm bình rằng trứng cá úc nghệ ngon hơn golden caviar.
Loại cá úc dừa, màu xám, là loại nhiều nhứt sống ở sông, ít
xương, nhiều thịt, trứng rất ngon, có thể so với caviar đen.
Cá út chuột chỉ to bằng ngón chưn cái, màu đen đốm to và
trắng, ít xương. Món ăn cố cựu từ cá úc là canh chua (8).]
Vàm. Khm: péam = cửa sông, nơi một con sông nhỏ (rạch)
chảy vào con sông lớn. Ở đồng bằng ĐN-CL có nhiều sông
rạch, do đó có rất nhiều địa danh bắt đầu bằng chữ “vàm”
như Vàm Cống (thuộc Gò Công), Vàm Nước Trong (Kiến
Hòa), Vàm Sông Thượng (Cần Thơ), Vàm Nao (An Giang).
Vàm Nao: một trong những địa danh nổi tiếng ở miền Nam.
Địa danh nầy đã đi vào văn chương bình dân VN:
“Ngó lên Châu Đốc Vàm Nao,
Thấy buồm em chạy như dao cắt lòng;
Ngó lên Châu Đốc Vàm Nao,
Thấy con cá đao bổ nhào vô lưới,
Biết chừng nào anh cưới được em;
Ngó lên Châu Đốc, ngó xuống Vàm Nao,
Anh thương em ruột thắt gan bào,
Biết em thương lại chút nào hay không ?.”
Chữ “vàm” còn dùng làm tên sông: sông Vàm Cỏ có
nguồn từ Kampuchia, gồm hai nhánh. Vàm Cỏ Đông (chảy
ngang qua Bến Lức) và Vàm Cỏ Tây (ngang qua Tân An).
Cả hai sông nầy ở phía Nam của Sài Gòn.
18
Vắt. Khm: tiek = một loại động vật hút máu, sống trên
đất ẩm tới khô, nơi đất khô vắt bị khô cứng khi có nắng nên
chỉ hoạt động về đêm tới sáng tinh sương mà thôi. Vắt phát
hiện và định hướng động vật hoặc người bằng sự sai biệt
nhiệt độ. Vắt có thể cảm nhận sai biệt nhiệt độ dưới 1 độ
(C) chênh lệch, chúng di chuyển rất nhanh về hướng nhiệt
độ cao để bám vào thú hoặc người và hút máu.
Vĩnh Long (hay Vũng Luông, Vãng luông): tên một tỉnh
vùng Hậu Giang. Cũng có nguồn từ chữ Kampong luông.
Kompong = vũng. Luông = vua = Long.
[Có thể là VN, Kampuchia và cả Lào đều mượn chữ
“long” (= rồng) = “vua” của Trung Hoa. Khmer có
Kampong Luông; VN có Tầm phong Long; Laos có
Luôngprapang (Louang Prabang); tất cả đều liên hệ đến
chữ vua.]
Xà di. (không rõ cách viết âm theo Khm). Một loại bẫy.
Có 2 loại xà di: xà di chuột và xà di cá. Xà di chuột có kiến
trúc tròn dài bằng tre, đường kính độ 10-15 cm, dài độ 1 m,
có hai hom, dùng bắt chuột vào đầu mùa khô. Xà di cá có
kiến trúc là một cái lưới 5 mạng hình ống loa bằng dây lăng
hoặc dây đừng. Bắt cá bằng xà di là một cách săn cá rất
điệu nghệ của người Việt/Khmer Hậu Giang: chỉ những
loại cá quá khích như cá lóc, cá bông (lau) mới mắc vào xà
di. Chúng dùng toàn lực chui vào để phá cho hư hỏng.
Xà neng. Khm = sneng. Dụng cụ đa năng bằng nang tre
của người Khmer, có hình một cái xuổng. Người Khm
dùng để xúc lúa và bắt cá. Người TH ở Việt Nam dùng xúc
lúa, người Việt tiếp nhận để bắt cá cận bờ.
Xăm (cũng đọc là xom). Khm: xăm = cây chỉa có 3 đầu
nhọn dùng đâm (chỉa) cá. Danh từ xăm (vật dụng) và động
từ xăm (chỉa) đã hoàn toàn Việt hóa từ lâu đời.
Xoài. Khm: Svay Prey. (xin xem địa danh Chùa Xoài).
Loại cây/trái đặc sản của vùng nhiệt đới, tên khoa học
Mangifera Indica L.
Yuôn: (Xem chữ Duôn).
19
NHỮNG CHỮ VIỆT ĐỒNG ÂM và
ĐỒNG NGHĨA VỚI CHỮ KHMER
Một số nhỏ những chữ nầy trích ra từ quyển
“Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc VN ” (NGML) của tác giả
Bình Nguyên Lộc (BNL). Sau mỗi chữ trích từ sách BNL
sẽ có dấu qui ước*. Ví dụ: Ăn* [ănh] = VN Ăn, Khm
[ăng]
Những chữ không ghi dấu qui ước, trích từ CD của
Bác sĩ Nguyễn Hy Vọng (NHV), và có nơi ghi thêm ý kiến
riêng của giáo sư Phan Tấn Tài hay của chúng tôi khi viết
bài nầy. Trong số những chữ bên dưới đây, có nhiều chữ
người Việt đã dùng từ xưa, có nhiều chữ không biết ai
mượn của ai, rất khó xác định nguyên gốc. Ngoài ra còn có
những chữ tượng thanh, thì nếu âm giống nhau sẽ không có
gì đáng ngạc nhiên. Điều đáng nói là một số khá đông
chúng ta ít có người biết được sự sử dụng giống nhau nầy.
BẢN LIỆT KÊ
Sau đây là bảng liệt kê một số rất nhỏ những chữ
thuộc loại đồng âm đồng nghĩa hay âm & nghĩa gần giống
nhau. (Vì là dùng tiếng VN để ký âm, nên có thể có những
chữ diễn tả không đúng như âm Khm vì không có những
âm tương đương trong vần VN, hoặc chỗ thì dùng “c” chỗ
thì dùng “k” (trường hợp chữ côn / kôn) do khác tác giả.
------------------
Ả trong chữ óng ả = tốt đẹp. Khm: k-ả k-óng.
Ách: đầy trướng lên như “no phát ách”. Khm: Ch-ach,
chòm-ach = no đầy.
Ác = một loài chim. Khm: ak hay k-ak = con diều. Người
Việt gọi chim “ác là”, là một loại chim săn như ó, diều, có
20
lông trắng, thân hình nhỏ hơn ó hay diều, có giọng la nhức
tai mỗi khi chúng chạm trán với nhau.
Ảng (hay Áng): vật dụng đựng nước. Người Việt hiểu ảng
là một loại chậu nước lớn và trẹt. Khm: ang = hồ nước
(như hồ nuôi cá, hồ tắm, hồ nước trên núi).
Ao: hồ nước nhỏ. Khm: ao = hồ nước nhỏ.
Ăn* (ăn uống). [ănh.]
Ắp: đầy. Khm: ắp, kh-ăp.
Âu yếm: thương, quyến luyến. Khm: kr-yêm = thẹn
thùng; có vẻ thương nhau.
Bang hay báng: phình to (chang bang). Khm: kàm bang,
kàm piang = chè bè ra, phình ra.
Băng: bó kín. Khm: kòm băng, boom băng.
Bắt (buộc): ép phải làm theo. Khm: bătch; chàm-bătch =
yêu cầu, đòi hỏi.
Bắn*. [panh.]
Can: cản ngăn chận. Khm: khang = can ngăn.
Cà: trái cà. Khm: kar, klar.
Cà chớn: lười biếng, vô tư cách, vô trách nhiệm. Khm: kh-
chơi, kchưl = cà chớn; kần chrới = vô trách nhiệm; kàm
chơi = nhác nhớm.
Cà kê: khề khà (cà kê dê ngổng). Khm: r-kề r-cà.
Cà nhắt: khập khểnh. Khm: kh-nhak; dao nhăk nhok = đi
ỏng ẹo.
Cà tong: ốm tong teo. Khm: kr-taong = cà tong cà teo.
Cà thọt: (đi chân thấp chân cao). Khm: kòn chọt = xiêu
vẹo.
Càng: thêm (như “được như vậy càng tốt”). Khm: kàng =
hơn, thêm nữa.
Căm: giận. Khm: r-kăm; rkam chơi = lòng căm giận.
Cháu* (con cháu). [cha.]
Chí* (rận). [chaay.]
Chín* (nấu chín, trái cây chín). [ch’eanh.]
Chó* (con vật). [cho.]
21
(Chò) ho, cho ho : một cách ngồi. Khm: ch-hoh = ngồi
trên hai chân, đít không chạm đất (ngồi chồm hổm).
Chơn (chưn). Khm: chơơng = bên dưới; cũng có nghĩa là
cái chơn hay cái chưn.
Con* (cha con). [côn.]
Con (cha con). Khm: kôn, kun. Kôn chau = con cháu.
Con (con vật). Khm: kôn. Kôn ch-kêy = con chó.
Con ruồi* (ruồi muỗi). [ko ruy.]
Còng* (vòng): cái vật còng tay. [kong.]
E: có ý sợ như e dè, e ngại. Khm: bòng e bòng ung = e
ngại, ấp úng. È ạch, Ì ạch: nặng nề, khó nhọc. Khm: ph-è,
chàm-è.
Ẹ: dơ bẩn. Khm: ch-e; klơn ch-e = mùi hôi. Èo ọp: ốm
yếu. Khm: r-op, tr-op.
Ém: dấu mất. Khm: Ém.
Ép: đẩy dính sát vào nhau, làm áp lực. Khm: ép, bòng-ep.
Ê: đau, hơi đau. Khm: xằng ê; xằng ê thmin = ê răng.
Êm: dịu, nhẹ nhàng. Khm: ph-êm.
Ếch: như ếch nhái. Khm: ênh hay ếch; côn chanh ch-ếch
= con
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net