Phong Kiều dạ bạc - Trương Kế

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Nguyên tác chữ Hán:

楓橋夜泊

月落烏啼霜滿天,
江楓漁火對愁眠。
姑蘇城外寒山寺,
夜半鐘聲到客船。

Phiên âm Hán Việt:

Phong Kiều dạ bạc

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hoả đối sầu miên.

Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

Dịch thơ:

Nửa đêm đậu bến Phong Kiều

Trăng tà, tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

[Bản dịch của Nguyễn Hàm Ninh]

----------

Chú thích:

1. Phong Kiều: tên một bến thuyền bên kênh Đại Vận Hà thuộc tỉnh Giang Tô ngày nay. Nơi đậu thuyền của Trương Kế được cho là ở gần cầu vòm Phong Kiều hiện nay.

2. Cô Tô: tên một tòa thành cổ, nơi từng là đô thành của nước Ngô thời Xuân Thu. Thành cổ Cô Tô ngày nay thuộc địa cấp thị Tô Châu, tỉnh Giang Tô.

3. Hàn San (Sơn) tự: chùa Hàn Sơn được xây năm 502, nằm bên kênh Đại Vận Hà nối liền nam bắc. Ngôi chùa từng bị phá hủy trong thời kỳ Thái Bình Thiên Quốc chiếm đóng và được phục dựng lại năm 1905. Chùa Hàn Sơn là một ngôi chùa nhỏ nhưng nó được nhiều người biết đến nhờ bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế. Một nhà sư ở chùa này từng nói: "Hàn Sơn tự là một chùa nhỏ nhưng nó lưu danh thiên cổ chỉ nhờ một tiếng chuông".


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net