Chương I: Hai thế giới

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hai thế giới hòa lẫn vào nhau ở đó;

ngày và đêm tiến đến từ hai đầu cực đối lập.

       Tôi sẽ bắt đầu câu chuyện của mình bằng một chuyện xảy ra khi tôi lên mười tuổi. Lúc đó, tôi đang theo học ở một trường Latin trong thị trấn nhỏ của chúng tôi.

       Mọi cảnh tượng và mùi hương như trỗi dậy trong lòng tôi, chạm vào khiến tôi vừa nhức nhối vừa rùng mình vui sướng - những con đường có tối tăm, có sáng sủa, nhà cửa và đài tháp, đồng hồ điểm chuông từng tiếng, khuôn mặt của mọi người, những căn phòng chật ních các tiện nghi ấm áp và dễ chịu, những gian buồng đầy ắp bí mật và nỗi sợ ma quỷ ghê gớm. Đấy là thứ hương thơm của không gian ấm cúng, của những chú thỏ và các cô hầu gái, của những viên thuốc gia dụng và hoa quả sấy khô. Hai thế giới hòa lẫn vào nhau ở đó; ngày và đêm tiến đến từ hai đầu cực đối lập.

       Một thế giới là ngôi nhà của bậc phụ huynh, nhưng thực tế nó còn nhỏ hẹp hơn nữa, chỉ bao gồm cha mẹ tôi. Tôi hiểu rõ toàn bộ thế giới này: tên của nó là Cha Và Mẹ, nó là tình yêu thương và những luật lệ nghiêm khắc, là giáo dục và những hành vi gương mẫu. Những thứ thuộc về thế giới này là ánh sáng lan tỏa dịu dàng, sự trong trẻo và sạch sẽ, những cuộc đối thoại lặng lẽ và thân thiện; những bàn tay đã rửa ráy, quần áo tươm tất, những hành vi chuẩn mực. Ở đây, sáng sớm người ta hát thánh ca, lề thói Giáng sinh được gìn giữ. Trong thế giới của những đường và lối thẳng tắp dẫn tới tương lai này có nghĩa vụ và phận sự, lương tâm xấu xí và những lời thú tội, sự tha thứ và những hướng đi tốt đẹp, tình yêu và lòng tôn trọng, trí tuệ và những câu ngạn ngữ Kinh thánh. Bạn phải bám theo thế giới này để cuộc đời bạn có thể được trong sạch và thuần khiết, đẹp đẽ và hài hòa.

       Trong khi ấy, thế giới còn lại cũng đang ở ngay đó, ngay giữa ngôi nhà của chúng tôi và hoàn toàn khác biệt: nó mang một mùi hương khác, cất tiếng theo một cung cách khác, hứa hẹn và đòi hỏi những thứ vô cùng khác biệt. Trong thế giới thứ hai này, có những cô hầu gái và những người làm công lang bạt, những câu chuyện ma quỷ và tai tiếng ồn ào, một tổ hợp màu mè những thứ gớm ghiếc, đầy cám dỗ, kinh hãi và bí ẩn như lò mổ, nhà tù, những tên bợm nhậu và các bà thím cãi cọ, bò đẻ con, ngựa què chân; cùng vô vàn câu chuyện trộm cắp, giết người, tự tử. Tất cả những thứ xấu xí, tồi tệ, hoang dại và tàn khốc này đều tồn tại ở mọi nơi - ở con phố kế bên, ở mái nhà sát vách. Cảnh sát và ăn mày chạy lông nhông, bọn say xỉn đánh vợ, hàng dài thiếu nữ ào ra khỏi các nhà máy sau giờ làm, mấy bà cô già có thể yểm bùa khiến bạn đổ bệnh, từng đám cướp sinh sống trong bìa rừng, những kẻ phóng hỏa bị cảnh sát địa phương bắt giữ - thế giới thứ hai hùng mạnh này tràn ra ở khắp mọi nơi, trừ những căn phòng trong nhà chúng tôi có sự hiện diện của Cha Và Mẹ. Và thế cũng tốt. Thật tuyệt vời làm sao, trong nhà chúng tôi có hòa bình, sự êm ả và trật tự, nghĩa vụ và lương tâm, lòng nhân từ và tình yêu - và tuyệt vời làm sao khi mọi thứ còn lại cũng tồn tại, tất thảy những thứ ồn ã và inh tai, tam tối và bạo lực, mà bạn hoàn toàn có thể thoát khỏi chúng chỉ bằng một bước chạy hướng về phía Mẹ.

       Điều kỳ lạ nhất là hai thế giới đó tiếp xúc với nhau, chúng gần gũi nhau đến thế! Ví như cô hầu gái Lina của chúng tôi, khi chị ta ngồi bắt đôi tay vừa rửa sạch sẽ lên chiếc tạp dề đã vuốt thẳng thớm trên đùi, cầu nguyện cạnh cửa phòng khách và góp giọng ca tươi trẻ vào bài hát của chúng tôi, chị ta hoàn toàn thuộc về Cha Và Mẹ, thuộc về chúng tôi khi đang sống trong thế giới của áng sáng và sự thật. Giây phút ngay sau đó, trong nhà bếp hay chuồng ngựa, khi chị ta kể cho tôi nghe về gã đàn ông nhỏ thó không đầu, hay những vụ đánh nhau với mấy ả hàng xóm ở quầy bán thịt, chị ta lại là một người khác và là một phần của thế giới kia, bị bao phủ trong màn bí ẩn. Tất cả mọi người đều như vậy, nhất là chính tôi. Dĩ nhiên tôi cũng là thành phần của thế giới sáng chói và thành thực - tôi là con của cha mẹ tôi - nhưng, mỗi khi tôi quay mắt nhìn hoặc vểnh tai nghe, thế giới kia vẫn luôn ở đó. Và, tôi cũng sống trong cả thế giới kia, dù tôi thường cảm giác mình không thuộc về nó, về vương quốc kinh hãi của nỗi sợ và tín ngưỡng. Đôi lúc tôi lại khoái thế giới cấm kia hơn, và khi quay về với ánh sáng, dù ánh sáng có tốt đẹp và cần thiết đi chăng nữa, tôi cảm thấy dường như mình quay lại với một thứ kém đẹp đẽ, kém hứng khởi, hoang vắng và ảm đạm hơn. Có lúc tôi biết rằng, mục tiêu trong đời của tôi là trở thành một người giống như cha và mẹ tôi: thật sáng láng và thuần khiết, thật giỏi giang và hòa thuận. Nhưng để đạt tới được mục tiêu đó thì phải đi qua một chặng đường rất dài, thay vì trong hành trình bạn phải ngồi im lặng trên ghế nhà trường, học tập, thi cử và đỗ đạt, bạn có thể chọn con đường chạy ngang qua thế giới tối tăm kia, thậm chí là xuyên hẳn qua, nhưng việc lưu luyến hay chìm đắm trong thế giới kia là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Đã có rất nhiều câu chuyện kể về những cậu bé lạc lối, những đứa con hoang đàng (2. Đứa con hoang đàng: Câu chuyện Jesus kể trong sách Phúc Âm Luke 15:11-32 - người con trai trở về nhà sau khi tiêu xài hoang phí toàn bộ tài sản của mình.), tôi đọc về chúng một cách khát khao. Sự trở về với người cha, với những điều tốt đẹp luôn là một sự giải phóng vĩ đại trong những câu chuyện đó - tôi hoàn toàn nhận thức được rằng đấy là kết quả đúng đắn, tốt đẹp và đáng mong đợi nhất; nhưng phần kể về những linh hồn lầm lạc và bị quỷ dữ xâm chiếm lại là phần thú vị nhất, và giá mà có thể thú nhận rằng, đôi khi thật đáng tiếc khi linh hồn lầm lạc bị tìm thấy và phải ăn năn. Nhưng bạn không thể nói ra điều ấy, thậm chí còn không được phép nghĩ về nó. Nó chỉ đơn giản là hiện diện ở đó, một linh cảm hoặc một khả năng được chôn vùi sâu thẳm dưới tầng tầng cảm xúc của bạn. Khi tôi tưởng tượng về ác quỷ, tôi có thể thấy hắn ta rõ mồn một trên đường phố dưới chân đồi, có thể đang đội lốt ngụy trang hoặc không, hoặc ở hội chợ, hoặc trong quán rượu - nhưng không bao giờ ở trong nhà chúng tôi.

       Các chị em gái của tôi cũng thuộc về thế giới sáng sủa. Tôi thường cảm thấy họ sinh ra đã giống Cha Và Mẹ hơn tôi - ngoan ngoãn hơn, hoàn hảo hơn, tốt đẹp hơn. Họ có khuyết điểm và các thói hư, nhưng tôi cảm giác đều là những điều vụn vặt. Không giống tôi, tôi dường như ở gần với thế giới bóng tối hơn, mỗi sự tiếp xúc với ác ma đều đớn đau và gian khổ. Các chị em, họ giống như cha mẹ, đều nhận được sự chăm sóc và tôn trọng, mỗi khi gây gổ với họ lương tâm của tôi đều mách bảo mình là kẻ xấu, là kẻ cần phải cầu xin sự tha thứ, vì làm phật lòng các chị em cũng là phật lòng cha mẹ, phật lòng những hình tượng quyền uy thánh thiện. Có những bí mật tôi thà chia sẻ với bọn lưu manh tệ hại nhất trên phố không chút do dự, còn hơn là phải kể với các chị em của tôi. Vào những ngày đẹp trời, khi không khí tươi sáng và lương tâm của tôi đang trong trẻo, tôi sẽ hân hoan chơi đùa cùng với chị em mình, sẽ hành xử ngoan ngoãn với họ và tự khiến mình hiện lên trong ánh sáng cao quý, tốt đẹp. Cuộc sống của một thiên thần chắc cũng chỉ vậy mà thôi! Đó là hình tượng cao nhất mà chúng tôi có thể hình dung, và chúng tôi đã nghĩ rằng nếu được làm thiên thần thì sẽ tuyệt vời và ngọt ngào biết chừng nào, được bao bọc bởi thứ âm thanh rạng rỡ, trong veo, tỏa mùi thơm như Giáng sinh và hạnh phúc. Nhưng những ngày tươi đẹp ngắn chẳng tày gang! Bao nhiêu lần, kể cả khi đang chơi một trò vô hại, được cho phép nào đó với các chị em, tôi lại chơi bằng quá nhiều đam mê và sức lực, dẫn tới các tai nạn, hoặc các trận đánh nhau. Khi sự giận dữ cùng phẫn nộ bủa vây lấy tôi, tôi trở thành một tên tồi tệ và thốt ra những lời mà tôi có thể cảm nhận một cách sâu sắc về độ rác rưởi của chúng, dù chính tôi là kẻ nói nên lời. Tiếp theo là hàng giờ đồng hồ nuối tiếc và ăn năn, kế tiếp là giây phút đau đớn khi tôi cầu xin sự tha thứ, và sau đó lại là một chùm sáng chói lọi - thứ hạnh phúc hiền hòa, khoan khoái và lặng lẽ tiếp tục thêm một vài tiếng, hoặc vài phút nữa. 

       Tôi đi học ở trường Latin, cùng lớp với con trai thị trưởng và con trai của ông trưởng ban kiểm lâm. Thi thoảng chúng cũng qua nhà tôi chơi; chúng là những cậu bé hoang dại, thế mà chúng lại thuộc về thế giới tốt đẹp, không bị ngăn cấm. Nhưng, tôi cũng chơi đùa với bọn con trai học trường công lập ở khu bên cạnh, những đứa nhóc mà vốn chúng tôi khinh thường. Câu chuyện của tôi bắt đầu cùng một kẻ trong đám nhóc ấy.

       Một buổi chiều nọ, khi chúng tôi được nghỉ học - tôi lúc đó hơn mười một tuổi một chút - tôi đang lang thang khám phá cùng hai đứa trẻ khu bên cạnh. Thế rồi, một đứa lớn hơn nhập bọn, hắn, ta là con trai của một gã thợ may, ồn ào và lực lưỡng, mười ba tuổi, học trường công lập. Cha hắn nghiện rượu, cả gia đình đó không có tiếng tốt gì. Tôi biết khá rõ về tên Franz Kromer này; tôi e sợ hắn, và tôi cũng chẳng lấy làm vui vẻ gì khi có hắn nhập bọn. Phong thái của hắn đã đượm vẻ người lớn, bắt chước cách thức đi lại và nói chuyện của đám công nhân nhà máy. Hắn dẫn đường cho chúng tôi theo, trèo xuống bờ sông cạnh cây cầu, trốn khỏi thế giới, ẩn dưới nhịp cầu đầu tiên. Dải rìa sông chật hẹp nằm giữa bức tường nhô ra của cây cầu và dòng nước chảy lờ đờ chẳng có gì ngoài rác rưởi, đá vụn và đồ tạp nham - những đống lộn xộn dây thép rỉ sét và tương tự như thế. Lâu lâu lại tìm thấy một thứ dùng được ở đây; Franz Kromer bảo chúng tôi kiếm cùng hắn và thấy gì thì phải chìa cho hắn xem. Rồi hắn sẽ bỏ vào túi áo hoặc lại vứt ra xa xuống sông. Hắn dặn chúng tôi để mắt tới bất kỳ thứ gì làm bằng chì, đồng hoặc thiếc, hắn sẽ luôn giữ chúng lại; hắn nhét túi cả một chiếc lược ngà cũ. Tôi cảm thấy khó chịu khi ở cùng hắn, không phải vì tôi biết cha mình sẽ ngăn cấm việc tôi đang làm, mà bởi tôi sợ hãi chính Franz. Nhưng tôi vẫn vui vì hắn chấp nhận và đối xử với tôi như những người khác. Hắn ra lệnh và chúng tôi chấp hành, cứ như đấy là những lề thói lâu năm, dù đây là lần đầu tiên tôi gặp gỡ hắn ta.

       Mãi sau, chúng tôi mới ngồi xuống bãi đất. Franz nhổ nước bọt vào dòng nước, trông như một thằng đàn ông; hắn nhổ nước bọt qua kẽ răng và có thể nhổ trúng bất cứ chỗ nào hắn muốn. Mọi người bắt đầu trò chuyện, bọn nhóc hào hứng khoe khoang và tự khen lẫn nhau về những trò anh hùng trường học, hay các vụ chơi khăm mà chúng đã bày ra. Tôi giữ im lặng, nhưng lại e sợ rằng chính vì thế mà tôi trở nên nổi bật và sẽ chọc giận Kromer. Hai nhóc đi cùng đã chuyển hẳn sang bên cạnh hắn ngay từ lúc đầu và cố tránh xa tôi, tôi là kẻ ngoài cuộc, tôi cảm giác quần áo mình, cung cách mình hành xử là một thách thức đối với bọn chúng. Franz sẽ chẳng bao giờ ưa tôi, một học trò trường Latin, con trai của một ông bố giàu có, và tôi dám chắc là hai thằng nhóc kia sẽ bỏ rơi tôi mà không cần đến một giây nghĩ ngợi, nếu chúng nhất định phải làm vậy.

       Cuối cùng, chỉ bởi vì sợ hãi, tôi cũng bắt đầu mở miệng. Tôi bịa ra một câu chuyện trộm cắp, trong đó chính tôi là anh hùng. Tôi kể rằng, một đêm nọ, ở vườn cây cạnh cối xay gió, tôi và một thằng bạn đã ăn trộm một bao táo, và chúng không phải là thứ táo tầm thường mà là loại tuyệt hảo nhất, táo Pipin Vua và táo Đỏ Golden(3. Reine des Reinette, Golden Pearmain: Giống táo ngon, chín vào mùa thu). Tôi tránh khỏi tình huống nguy hiểm của mình bằng cách bịa ra câu chuyện này; việc bịa chuyện và kể chuyện không biết từ bao giờ trở nên thật dễ dàng và tự nhiên đối với tôi. Thế rồi, để khỏi phải dừng lại quá sớm và có thể bị lâm vào một tình thế còn khó xử hơn, tôi đẩy mạnh tối đa thiên bẩm của mình: tôi kể rằng một trong chúng tôi phải canh chừng suốt buổi trong khi người còn lại ném táo từ cây xuống, và cuối cùng bao táo trở nên quá nặng nên chúng tôi phải bỏ lại một nửa số táo, nhưng nửa tiếng sau chúng tôi đã quay lại để lấy nốt.

       Khi kể xong, tôi hy vọng chúng sẽ tỏ vẻ tán thưởng. Tới cuối câu chuyện tôi bắt đầu thấy trơn tru và say sưa trong sự tưởng tượng của chính mình. Hai đứa nhóc nhỏ hơn không nói gì, chờ phản ứng của Franz Kromer, trong khi hắn ta nhìn tôi với con mắt nheo hẹp sắc lẹm và hỏi tôi bằng một giọng đe dọa: "Là thật sao?"

       "Dĩ nhiên." Tôi đáp.

       "Thật sự và chính xác?"

       "Đúng, thật sự và chính xác." Tôi khăng khăng chắc nịch, dù trong lòng ngập tràn nỗi sợ.

       "Mày dám thề không?"

       Tôi kinh hãi, nhưng ngay lập tức trả lời Có.

       Tôi thốt lên: "Thề có Chúa và các thánh thần".

       "Được rồi." Hắn nói và quay người đi.

       Tôi nghĩ mọi chuyện đã ổn thỏa, và tôi cũng mừng khi không lâu sau hắn đứng dậy và bắt đầu đi về. Khi chúng tôi ở trên cầu, tôi dè dặt bày tỏ rằng mình phải về nhà ngay lập tức.

       "Có gì phải vội chứ." Fritz vừa nói vừa cười: "Chúng ta đi cùng đường mà."

       Chúng tôi chậm rãi tản bộ, và tôi không dám chạy đi, nhưng Franz Kromer thực sự đi về phía nhà chúng tôi. Lúc tới nơi, khi tôi nhìn thấy cửa trước và nắm tay cầm bằng đồng dày dặn, thấy mặt trời qua khung cửa sổ và dải rèm trong phòng của mẹ, tôi thở phào một tiếng. Về nhà rồi! Ôi, sự trở về hạnh phúc, về với sự tươi sáng và hòa bình!

       Tôi nhanh chóng mở cửa và lách người vào trong, chuẩn bị sập cửa lại sau lưng mình thì Franz Kromer chen vào. Trong sảnh đường lát gạch lạnh lẽo và âm u, chỉ có một chút ánh sáng hắt vào từ sân nhà ấy, hắn đứng trước mặt tôi, tóm lấy tay tôi, và khẽ nói: "Nhóc, đừng đi nhanh thế!"

       Tôi kinh hoàng nhìn vào hắn. Tay hắn giữ chặt tay tôi như đá. Tôi cố tưởng tượng xem trong đầu hắn đang nghĩ gì, hắn có muốn làm hại tôi hay không. Tôi dợm nghĩ, nếu bây giờ tôi gào lên, gào thật to, thật mạnh, liệu có ai ở trên kia kịp xuống đây để cứu tôi không? Nhưng tôi chọn im lặng.

       "Gì vậy?" Tôi hỏi: "Anh muốn gì?"

       "Không có gì. Tao chỉ muốn hỏi mày vài chuyện. Không cần để bọn kia nghe thấy.

       "Vậy à? Anh muốn hỏi chuyện gì? Mà giờ tôi phải lên nhà rồi."

       "Mày biết vườn cây ăn quả cạnh cối xay gió là của ai mà, phải không?" Franz nói nhỏ nhẹ.

       "Không, tôi không biết. Chắc là của ông chủ cối xay gió."

       Sau đó, Franz quàng tay quanh vai tôi, hắn kéo tôi sát lại gần mặt để tôi phải nhìn vào hắn từ cự ly gần. Đôi mắt của hắn thâm độc, hắn nở một nụ cười kinh tởm, và khuôn mặt hắn mang đầy sự tàn ác cùng sức mạnh.

       "Chà, nhóc ạ, tao có thể nói cho mày biết chủ vườn cây là ai. Tao biết từ lâu rồi có kẻ ăn trộm táo của lão ta, và tao cũng biết rằng lão nói sẽ trả hai mark(4. Đơn vị tiền tệ cũ của Đức) cho ai chỉ điểm tên trộm."

       "Chúa ơi!" Tôi bật khóc: "Anh sẽ không nói với ông ta chứ?"

       Tôi biết việc khơi gợi lòng tự tôn của hắn chẳng có ích gì. Hắn ta đến từ thế giới kia: với hắn, sự phản bội không phải là tội ác. Tôi cảm nhận được điều ấy vô cùng rõ ràng. Trong những khía cạnh này, người đến từ thế giới "khác" không giống chúng tôi.

       "Không nói với ông ta?" Kromer cười lớn. "Mày nghĩ tao là ai, cậu bạn, là tên lừa đảo nào đó có thể tự chế ra một đồng hai mark cho mình sao? Tao nghèo lắm. Cha tao không giàu như cha mày. Nếu phải nói ra để kiếm hai mark, tao sẽ nói. Có khi ông ta còn cho tao nhiều hơn."

       Hắn bất ngờ buông tôi ra. Sảnh trước nhà chúng tôi không còn chứa đựng hòa bình và sự an toàn nữa - thế giới đang sụp đổ xung quanh tôi. Hắn sẽ tố cáo tôi, tôi là một tên tội phạm, họ sẽ nói với cha tôi, có khi cảnh sát sẽ ập tới. Tất cả những nỗi kinh hoàng của sự hỗn loạn đe dọa tôi; mọi thứ xấu xí và nguy hiểm đều được triệu hồi chống lại tôi. Sự thực rằng tôi chưa hề ăn trộm táo của ai không còn bất kỳ ý nghĩa nào cả - tôi đã thề thốt điều ngược lại. Chúa ơi, Chúa ơi!

       Nước mắt tôi trào ra. Tôi nghĩ mình phải kiếm đường thoát, và tôi tuyệt vọng lục túi quần, túi áo. Không có táo, không có dao bỏ túi, chẳng có gì cả. Thế rồi, tôi nghĩ đến chiếc đồng hồ của mình. Đó là một chiếc đồng hồ bạc cũ không còn chạy, tôi chỉ đeo lên vì thích thôi. Nó vốn thuộc về bà của tôi. Tôi nhanh chóng lôi nó ra khỏi túi áo. 

       "Kromer, nghe này." Tôi nói: "Anh không thể giao nộp tôi, như thế không đúng đâu. Tôi sẽ đưa anh chiếc đồng hồ này, nhìn nhé, xin lỗi nhưng tôi không có thứ gì khác. Anh cứ lấy đi, nó làm bằng bạc, phụ kiện tốt lắm, chỉ bị lỗi một chút thôi, đi sửa là được."

       Hắn mỉm cười và cầm chiếc đồng hồ trong bàn tay to lớn của mình. Tôi liếc qua bàn tay ấy, có thể cảm thấy nó trông man rợ và tỏ vẻ thù địch với tôi như thế nào, nó đang vươn ra đe dọa cuộc sống và sự bình yên của tôi.

       "Nó làm bằng bạc đấy..." Tôi lí nhí trình bày.

       "Tao phải quan tâm đến chiếc đồng hồ bạc cũ này của mày làm gì!" Hắn khinh khỉnh nói: "Mày tự đi mà sửa!"

       "Nhưng, Franz..." Tôi khóc và run rẩy với nỗi sợ hắn sẽ bỏ đi: "Chờ đã! Cầm lấy chiếc đồng hồ rồi đi. Nó làm bằng bạc đấy, thực sự chính xác. Mà, tôi không còn thứ gì nữa cả."

       Hắn bình tĩnh nhìn vào tôi với một vẻ khinh miệt.

       "Được rồi, vậy mày biết tao sẽ đi gặp ai rồi đấy. Bằng không tao sẽ kể cho cảnh sát, tao có quen ông trung sĩ."

       Thấy hắn quay người định bước đi, tôi vội nắm lấy ống tay áo của hắn. Không được đi! Tôi thà chết đi còn hơn là phải đối mặt với mọi thứ nếu hắn bỏ đi như vậy.

       "Franz!" Tôi cầu xin bằng giọng nói có chút khàn: "Đừng làm điều gì ngu ngốc! Anh chỉ đang đùa thôi đúng không?"

       "Hẳn rồi, tao chỉ đang chơi đùa, nhưng trò chơi này có thể hơi đắt giá đối với mày đấy."

       "Hãy nói xem tôi có thể làm gì. Franz! Tôi sẽ làm bất cứ điều gì!"

       Hắn ta lại dò xét tôi bằng cặp mắt ti hí và cười phá lên lần nữa.

       "Đừng ngu ngốc như thế!" Hắn nói bằng thứ giọng vui vẻ giả tạo. "Mày biết rõ mà. Chỉ điểm là tao được hai mark, và tao không giàu có gì, tao không thể cứ thế vứt hai mark đi. Mày thừa biết. Nhưng mày giàu, mày còn có cả đồng hồ. Chỉ cần đưa tao hai mark là mọi chuyện sẽ ổn thỏa."

       Tôi hiểu lý lẽ này, nhưng hai mark! Chừng đấy tiền đối với tôi là không thể có được, chẳng khác gì mười mark, trăm mark hay ngàn mark. Tôi không có tiền. Chỉ có một ống tiết kiệm mà mẹ tôi giữ, bên trong có vài đồng năm, mười xu khi các chú bác qua thăm cho. Ngoài ra, tôi chẳng có một cắc nào. Ở tuổi đó, tôi chưa được cho tiền tiêu vặt.

       "Tôi không có gì cả." Tôi rầu rĩ nói: "Không có một đồng nào. Tôi có thể cho anh bất kỳ thứ gì tôi có. Một quyển sách về cao bồi và người da đỏ, hoặc là chiến binh, hoặc là một cái la bàn - tôi sẽ đi lấy chúng."

       Cái miệng kênh kiệu và đồi bại của Kromer cười nhạo tôi, hắn nhổ toẹt nước bọt xuống sàn nhà.

       "Thôi lảm nhảm đi!" Hắn ra lệnh. "Mày cứ giữ mấy thứ rác rưởi của mày đi. Một cái la bàn! Đừng làm tao cáu, nghe chưa? Tao muốn có tiền!"

       "Nhưng tôi không có tiền. Tôi chẳng bao giờ được cho tiền. Tôi không làm được gì cả!"

       "Ngày mai mày phải đưa hai mark cho tao. Tao sẽ đợi mày ở chợ sau giờ tan học. Chấm hết. Nếu mày không mang tiền tới thì cứ chờ mà xem!"

       "Nhưng tôi lấy tiền đâu ra đây? Chúa ơi, tôi không có."

       "Đó là chuyện của mày. Trong nhà mày có tiền. Tóm lại là sau giờ tan học ngày mai. Nói cho mày biết, nếu không kiếm được tiền..." Hắn nhìn thẳng vào mắt tôi với một cái nhìn khủng khiếp, nhổ thêm một bãi nước bọt nữa, và lặn biến đi như một cơn gió.

...

       Tôi không thể đi lên nhà. Cuộc đời tôi thế là xong. Tôi nghĩ tới việc chạy trốn và không bao giờ quay lại, hoặc tự trẫm mình, nhưng chỉ dám nghĩ thoáng qua thôi. Tôi ngồi ở bậc thang dưới cùng trong bóng tối, tự thu mình lại để nỗi khốn khổ bao trùm lấy thân thể. Lina thấy tôi ngồi khóc ở đó khi chị ta cầm giỏ xuống lầu lấy củi.

       Tôi đã nhờ chị ta đừng nói gì với mọi người, và bước lên nhà. Trên chiếc giá bên cạnh cửa thủy tinh treo chiếc mũ của cha và cây dù của mẹ - sự dịu dàng của gia đình tỏa ra từ những thứ ấy và trái tim tôi đón nhận lấy chúng, nài xin và cảm kích, như đứa con

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net

Ẩn QC