Chapter 3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Summary:

Một chút miêu tả về cuộc sống tỉnh lẻ thực sự  là như thế nào đối với Gon và gia đình, và một khối tài sản từ trên trời rơi xuống. 

2

Gon đứng một lúc trên bến cảng sau khi rời quán cà phê, hít thở làn khí lạnh, thực sự cố gắng kìm lại cơn buồn nôn và tự hỏi sao cuộc đời mình lại thành ra thế này. Câu hỏi tu từ thôi. Cậu biết mình đã đến sống ở thành phố này như thế nào, cảng quê hương nguyên thủy và đặc biệt tồi tàn của một trong nhiều tập đoàn thương mại mới lớn lên sau chiến tranh và sự sụp đổ của Đông Gorteau. Và cậu biết sự cân bằng giữa may mắn và rủi ro, sự sống và cái chết mong manh như thế nào. Rốt cuộc thì Gon cũng đã quen: cuộc sống đặc quyền mà họ từng có trong một ngôi nhà rộng rãi, thoáng mát trên bãi biển của một hòn đảo ngoài khơi, trước khi cha anh và của cải của họ mất tích trên biển.

Cậu đã chứng kiến, bất lực, khi các chủ nợ của cha lấy đi mọi thứ giá trị trong nhà, và cuối cùng đuổi cổ những người còn lại—Gon, dì và bà cố của anh—ra đường. Họ đã tìm đường đến Idrisi vì không còn nơi nào khác để đi. Một trong số ít tài sản còn sót lại - vì chẳng tên điên nào muốn có- là tòa nhà chung cư ở khu tồi tệ nhất của thành phố.

Từng là khu phố đáng kính của một giáo phái tôn giáo nhỏ, Khu phố Belsonso từ lâu đã biến thành trại tị nạn trong sự hỗn loạn chính trị toàn cầu nửa thế kỷ qua. Giờ đây, các tiệm bánh Padokea bản địa và Laundromats sánh vai với các cửa hàng gia vị Gorteau An, tiệm mỳ Nhật Bản, cửa hàng sách cũ đa ngôn ngữ và hàng trăm doanh nghiệp nhỏ khác với chủ sở hữu thuộc mọi chủng tộc và tín ngưỡng. Xen kẽ là những khu chung cư đổ nát tràn ngập những người cơ cực nhất thành phố, những dây phơi quần áo giăng giữa như một tấm lưới không thể xuyên thủng, quần áo được phơi phấp phới như những lá cờ cầu nguyện trên vách đá cheo leo.

Gon thở dài khi rẽ vào con phố của họ: nơi đây không có tên, giống như hầu hết các con phố trải dài Belsonso. Nó dốc và được trải sỏi, vài cái cây còi cọc khua cành kêu lanh canh và vài chiếc lá bám vào nhau trong cơn gió buốt thổi từ đỉnh đồi xuống. Gon cúi mặt sâu hơn vào chiếc khăn quàng rộng, mềm, màu xanh rừng mà dì Mito đã tặng cậu nhân dịp sinh nhật trước. Mặc dù đang là mùa xuân, nhưng cả hai đều biết rằng trời sẽ sớm trở lạnh và giá cả các mặt hàng hoa quả trái mùa quá tốt để bị từ chối. Bây giờ cậu rất vui vì điều đó.

Gon bước qua một vài khu chung cư đã bạc màu, quán mì chỉ cách một cánh cửa tỏa ra hơi nước thơm, và văn phòng bác sĩ châm cứu, nhưng cậu dừng lại ngay trước tiệm bánh cách căn hộ của mình một dãy nhà. Abe đứng bên ngoài trên một cái thang ọp ẹp, lau cửa sổ.

"Abe!" cậu bật khóc. "Bà đang làm gì thế?

Bà cố nhìn xuống cậu, khuôn mặt đầy nếp nhăn bừng sáng. "Gon! Bà Durand nói rằng bà ấy sẽ cho chúng ta tất cả đồ ăn thừa từ hôm qua nếu bà lau sạch cửa sổ. Thậm chí còn có hai chiếc bánh nướng xốp sô cô la nữa."

Gon thở dài. Bà không còn đủ sức để lau cửa sổ, thậm chí còn không nên ở bên ngoài một mình. "Abe, bà xuống đây đi."

Abe nhìn lại cửa sổ và bắt đầu kỳ cọ lần nữa: cùng một chỗ, lặp đi lặp lại, rõ ràng là phớt lờ Gon. "Bà muốn một chiếc bánh nướng xốp sô cô la."

Gon cố nén cơn bực tức, dịu dàng nói: "Bà ơi xuống với cháu đi ạ? Chỉ nói chuyện một phút thôi."

Một cách miễn cưỡng, bà loạng choạng bước xuống thang trong khi Gon đợi bên dưới để đỡ lấy nếu bà ngã. Khi đứng yên vị trên mặt đất, bà đứng trước mặt Gon, không nhìn thẳng vào mắt cậu. Chiếc áo khoác mỏng dài sờn cũ của bà bị nước bắn tung tóe, váy cũng vậy. Bà không có mũ hay găng tay. Bà cau mày khi xem xét bộ quần áo ướt sũng của mình, như thể tự hỏi làm thế nào mà nó lại xảy ra. Gon đã tự hứa với mình hàng nghìn lần rằng sẽ tìm cách cứu gia đình mình thoát khỏi cảnh khốn cùng này.

"Bà hãy về nhà nhé," cậu nói, ôm lấy bà. Bà quá yếu ớt, cảm thấy như mình sẽ nhàu nát như chiếc lá khô trong vòng tay cậu. "Cháu sẽ hoàn thành giúp bà."

"Nhưng cháu còn có việc."

"Cháu tan ca rồi."

Abe thở dài, nhưng bà ấy đã thả miếng giẻ lau vào xô nước bẩn. Gon cau mày khi thấy những ngón tay mỏng manh của bà tái xanh vì lạnh. Cậu sưởi ấm chúng trong giây lát, rồi vẫy tay chào bà. Sau đó, cậu mở túi của mình và lấy một cái giẻ lau.

*

Mặc dù cũng đổ nát như những nơi còn lại, tòa nhà của gia đình Gon vẫn giữ được nét hùng vĩ của thế giới cũ. Nó được sơn màu vàng nhạt, với mái ngói đất nung đổ nát và một dãy ban công bằng sắt rèn bấp bênh có bậc thang phía trước với những cánh cửa kính dài phía sau. Hầu hết các cánh cửa đều bị mất vài ô kính, được vá lại sơ sài bằng vải và bìa cứng, và ở một số chỗ, có thứ trông giống như một cái nắp trục bánh xe rỉ sét được ai đó cố gắng gia công về hình dạng cũ.

Những cánh cửa của nhà Freecss, ở trên cùng của khu chung cư, vẫn còn nguyên vẹn một cách thần kỳ. Đó là điều tốt đẹp duy nhất về nơi này. Căn hộ nhỏ xíu chật hẹp, quá nhỏ cho bốn người. Phòng ngủ đơn là của Gon, chủ yếu là vì nó không có hệ thống sưởi mà Komugi và Abe thì không thể chịu được cái lạnh mùa đông. Dì, bà cố và em gái của cậu phải trải những tấm pallet mỏng bên bếp lò trên sàn phòng khách vào ban đêm. Trong nhà có một vài món đồ nội thất cũng chính là những thứ đã ở đó khi họ chuyển đến, hỏng hóc và ọp ẹp.

Những đồng bạc cuối cùng của họ đã được chi trả cho chuyến đi đến nơi này, một hành trình quanh co trên biển mất nhiều thời gian hơn lẽ ra phải có, nếu họ có khả năng mua được vé tốt hơn. Trạng thái tinh thần của Abe bắt đầu sa sút không lâu sau đó. Gon đã luôn tự hỏi liệu có phải bà ấy chỉ muốn quên đi; để thoát khỏi hiện tại nghiệt ngã của họ để mơ về một cuộc sống giờ chỉ tồn tại trong ký ức. Bà đã quá yêu mến hòn đảo ấy, và ở một nơi xa lạ, bà khép mình. Giống như những tòa nhà trong khu phố của họ, những gam màu rực rỡ một thời của chúng ngả sang màu phấn nhạt dưới ánh mặt trời gay gắt và những cơn bão mùa đông khắc nghiệt. Giờ đây, bà chỉ còn là một hình ảnh mờ nhạt của con người trước đây của mình.

Dì Mito cũng không khá hơn là bao. Cuộc sống ở thành phố đã vắt kiệt sức lực của dì, cũng như việc dì ít nhiều phải một mình nuôi nấng hai đứa trẻ. Ở tuổi mười ba, dì chưa biết cách làm mẹ, nhưng dù sao thì thiên chức ấy đã đè nặng lên vai khi còn là một đứa bé sơ sinh, Ging còn chẳng để tâm đến việc chăm sóc bản thân mình cơ mà. Trong ngôi nhà lớn từng là của họ trên đảo, ít nhiều nó đã phát huy tác dụng. Mito đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ ở đó, và đã có những cơ hội để dì trốn thoát vài giờ mỗi ngày khi họ nhận số tiền mà Ging gửi đều đặn mỗi quý.

Một khi điều đó tan biến, đồng nghĩa là cả dì và Gon đều phải làm việc không ngừng nghỉ. Không bao giờ có cơ hội được đào tạo chuyên nghiệp, Mito chấp nhận công việc duy nhất dì được mời ở Idrisi, làm việc trong một dây chuyền của một nhà máy đóng hộp cá với số tiền cực kì ít ỏi, chẳng thấm thía gì so với hóa đơn hàng tháng họ phải gồng mình chi trả.

Đến năm bảy tuổi, Gon đã phải tìm kiếm bất kỳ công việc lặt vặt nào mà cậu có thể. Cậu lang thang quanh các quán bar ở Old Port sau giờ học và vào những ngày cuối tuần. Cậu nhanh chóng kết bạn với một vài đứa nhỏ khác, quét dọn các ô cửa hoặc thu gom rác, làm bất cứ thứ gì mà ai đó sẽ cho cậu vài đồng xu mang về nhà. Năm tám tuổi, cậu về nhà vào một buổi chiều mùa xuân lạnh giá với một bé gái hai tuổi trên tay thay vì một túi jenny. Cô bé bị mù và sốt cao, hơi thở khó nhọc vì viêm phổi, nhưng Mito vẫn mở rộng cửa đưa cô bé vào.

Cô bé nói một thứ ngôn ngữ mà chẳng ai hiểu, họ chỉ đủ hiểu tên của bé là Komugi. Mito đã gọi cho một bác sĩ mà họ rõ ràng không đủ khả năng chi trả, nhưng ông ấy chỉ nói rằng việc điều trị cho con bé là vô ích, nó có thể còn sẽ chẳng thể sống nổi hết tuần này. Nhưng dù sao thì Mito cũng đã mua thuốc, và cuối cùng con bé cũng khá hơn, mặc dù sẽ không bao giờ hoàn toàn khỏe mạnh như trước. Gon yêu cô em gái mới của mình rất nhiều và thầm nhủ trong lòng sẽ làm việc chăm chỉ hơn nữa để cho bé cuộc sống thoải mái nhất có thể.

Cậu vui mừng khi có cô bé bầu bạn trong suốt thời ấu thơ, và chứng kiến ​​những người bạn của mình lần lượt chìm sâu vào vũng lầy tại nơi này. Một số tìm được công việc pha chế rượu hoặc phục vụ bàn, giống như cậu, nhưng chỉ có rất ít cơ hội để tìm được một công việc hợp pháp trong khu ổ chuột của một cảng quốc tế đang phát triển, và Gon biết rằng mình đã rất may mắn khi là một trong những người đó. Những người còn lại thì dấn thân vào con đường mại dâm, một số thì may mắn hơn những người khác. Gon đã cố gắng không lắng nghe vào những buổi tối hiếm hoi khi một vài người trong số họ trốn việc và kéo cậu ra quán bar bên bến tàu, hả hê cười đùa và kể nhau nghe về những cuộc chinh phục mới nhất của họ.

"Cậu nên nghe, Bishie," một trong số họ luôn nói như vậy, huých khuỷu tay vào bên sườn Gon (họ đã gọi cậu bằng biệt danh mà Bisky đặt cho cậu từ lâu.) "Ghi chú lại đi chứ. Với gương mặt xinh xắn này của cậu, khối người điêu đứng đấy."

Gon muốn nắm chặt đồ uống của mình để khóc, để nổi giận, để trốn chạy nhưng chạy đâu bây giờ? Ngay cả khi có một nơi nào đó để cậu chạy, cậu cũng chẳng bao giờ từ bỏ gia đình mình, bởi vì Gon biết rằng sẽ có một ngày, sớm thôi, cậu sẽ là rào cản mỏng manh duy nhất cuối cùng giữa họ và cái đói.

Những suy ngẫm này khiến Gon rơi vào tâm trạng ủ dột khi cuối cùng cậu cũng về đến nhà với chiếc túi chứa đầy những món ăn thừa đã hứa từ tiệm bánh. Gon tìm thấy Abe và Komugi đang túm tụm bên lò sưởi nhỏ ở giữa phòng chính, Komugi kể cho Abe nghe một trong những câu chuyện cổ tích mà cô bé đã thuộc lòng từ những cuốn sách mà Gon hay đọc cho cô nghe. Trong khi đó, Mito đứng ở quầy bếp nhỏ, trước mặt dì là một đĩa hành tây thái lát mỏng. Mắt dì dán chặt vào cửa sổ phía trên bồn rửa, nơi có thể nhìn thấy một góc biển nhỏ giữa những mái nhà lộn xộn. Mito luôn là một người mơ mộng, dễ bị phân tâm, nhưng bây giờ trông dì thật khác so với những ngày còn trên đảo. Ngày đó, dì rực rỡ như những bông hoa trong khu vườn rộng lớn, mái tóc màu hạt dẻ xõa thành sóng dày đến eo, đôi mắt xanh luôn cười khi dì để Gon kéo mình từ nhà ra đến sân vườn để tham gia vào những trò chơi cầu kì của cậu.

Bây giờ tóc Mito đã cắt ngắn hơn và được búi thành một búi lộn xộn sau gáy, có vệt xám màu nâu đỏ. Khuôn mặt dì hốc hác, đôi mắt phẳng lặng và xa xăm. Mito lơ đãng quay lại khi cháu trai bước vào, nói: "Gon, cháu về sớm đấy," với một nụ cười chưa bao giờ hình thành trọn vẹn.

"Vâng ạ... uhm... Bisky cho cháu về."

Mito cau mày. "Ngay lúc này? Vào thứ bảy ư? Mọi chuyện ổn cả chứ Gon?"

"Ổn chứ ạ," Gon nói, không thể nào đối diện được ánh nhìn của dì. Số tiền mà Bisky đưa cho cậu để mua mấy chiếc quần mới nằm yên trong túi như hòn than cháy. "Dì nhìn xem, cháu có vài món đồ ăn thừa từ tiệm bánh này," cậu nói nhanh trước khi dì có thể gặn hỏi thêm bất kì điều gì. Gon lấy ra một trong những chiếc bánh nướng xốp sô cô la và đưa cho Abe. Bà hạnh phúc cắn một cách thích thú. Chiếc còn lại cậu dành cho Komugi.

Cô bé dù có ngửi cái bánh với vẻ thèm thuồng rõ ràng, ấy vậy lại từ chối nhận từ Gon. "Anh đưa nó cho dì Mito nhé," cô nói. "Dì ấy đã vất vả nhiều rồi."

"Cầm lấy đi, cháu yêu," Mito nói. "Cháu gầy quá."

"Nhưng..." Komugi phản đối.

"Không nhưng nhị gì hết," Mito dịu dàng, và Kumogi gật đầu, đồng ý nhận cái bánh.

Gon đặt túi đựng bánh trên quầy bếp rồi lui vào phòng ngủ, vứt chiếc áo khoác và khăn quàng cổ giờ đã ướt mồ hôi lên lưng một chiếc ghế trên đường đi. Cậu đóng cửa lại và thay đồ. Căn phòng nhỏ bé lờ mờ trong ánh sáng mùa đông đang tắt dần, lạnh đến mức đóng băng ở mặt trong của các ô kính cửa sổ, đến nỗi cậu cảm nhận được hơi thở mình như ngưng tụ thành băng. Gon cẩn thận cởi bộ quần áo đi làm và treo lên. Cậu chỉ có một bộ duy nhất, phải giặt nó vào ngày nghỉ, nên không được để bị bẩn trong thời gian đó. Tất nhiên, nếu cậu chịu nghe lời của Bisky, chẳng mấy chốc cậu sẽ có một chiếc quần khác. Gon thở dài bất lực.

Gon đứng bần thần một lúc trong chiếc boxer, nổi hết cả gai óc, suy ngẫm về việc tắm. Cuối cùng thì, cậu không thể chịu được phòng tắm chung ở tầng trệt, nơi chỉ để nước lạnh trong bồn. Vì vậy, Gon kéo ra một trong hai bộ quần áo khác của mình: một chiếc áo phông dài tay màu xanh lá cây và quần chở hàng màu ô liu tẻ nhạt không kém.

Gon quá mệt mỏi, kiệt sức đến tận xương tủy bởi gánh nặng lo âu. Cậu không muốn gì hơn ngoài chui vào chăn và đánh một giấc không mộng mị. Tuy nhiên, khi đang đứng suy nghĩ về nó, cậu nghe thấy tiếng gõ cửa lớn và văng vẳng tiếng người hàng xóm tầng dưới, "Có điện thoại!"

Điện thoại của tòa nhà, tương tự như cái phòng tắm, là điện thoại dùng chung và được đặt ở tầng trệt. Thở dài, Gon quay trở lại phòng chính khi Mito mở cửa. "Cháu sẽ nghe máy," cậu nói, trước khi dì bước ra, nhưng chàng trai trẻ ở ngưỡng cửa - một trong những người con trai của đại gia đình Mimboan sống trong tòa nhà được vài tháng - lắc đầu.

"Họ muốn nói chuyện với cô Mito," anh ta nói, giọng khản đặc khiến cậu khó hiểu. "Chỉ cô Mito thôi."

"Được rồi," Mito nhướng mày. Đa số cuộc điện thoại họ nhận được luôn là dành cho Gon. Cô biến mất sau cánh cửa và đi xuống cầu thang. Gon vào bếp.

"Dì Mito đang nấu món gì vậy ạ?", cậu hỏi.

"Súp hành," Abe sầu não.

"Hôm nay họ không cho dì bất kì miếng cá vụn nào ạ?"

Abe chỉ lắc đầu và ngái ngủ nhìn chằm chằm vào bếp. Gon nhìn qua các ngăn tủ. Chúng trống rỗng một cách đáng thương, và cậu tự nhắc mình phải ghé qua chợ khi Bisky trả tiền lương vào ngày mai. Lúc này đây, chỉ có hành tây, một chai rượu mạnh, một ít dầu và một cục pho mát chẳng biết là loại nào, hơi xanh có mốc quanh viền. Tuy nhiên, như vậy vẫn tốt hơn là không có gì, và bánh mì cậu mang theo sẽ đủ lấp đầy cái bụng đói của họ.

Gon chiên hành tây cho đến khi chúng chuyển sang màu nâu vàng, sau đó lót bánh mì cắt lát lên đĩa nướng, thêm hành tây, rắc pho mát lên trên và cuối cùng đổ rượu mạnh đã pha lên trên đĩa và đặt vào lò nướng. Cậu quay lại, lau tay và thấy Komugi đã rón rén đến dựa vào quầy.

"Sao anh biết làm thế?" cô bé hỏi.

"Làm gì? Nấu bữa tối ư?"

"Làm bữa tối mà không cần gì." Đôi mắt xanh nhạt của cô dán chặt vào cậu, cho Gon cái cảm giác kỳ lạ rằng cô bé nhìn được tường tận mọi thứ. Tất nhiên cô không thể, và sẽ không bao giờ. Komugi bị mù bẩm sinh, thế giới của cô bé mãi mãi là một màu tăm tối.

Gon mỉm cười. "Việc cần thiết phải làm thôi," và Komugi nhăn mặt.

"Ý em là, em chẳng biết cách nấu bất cứ thứ gì! Luôn là bị cháy, hoặc có mùi vị buồn nôn, hoặc hành vẫn còn giòn." Komugi rùng mình; cô ghét hành sống.

"Em mới mười hai tuổi thôi," Gon nói, đưa tay vuốt mái tóc vàng hoe xù ​​xì của cô. "Còn nhiều thời gian để học lắm."

"Anh sẽ dạy em chứ?" cô hỏi, nắm lấy tay cậu và xoắn các ngón tay của họ từ trong ra ngoài, hệt như trò Cat's Cradle.

Gon mỉm cười. "Tất nhiên. Nhưng đừng quá phấn khích. Chủ yếu là xào hành thôi."

"Khi nào chúng ta ăn sáng?" Abe hỏi.

Là ăn tối chứ, nhưng Gon không chỉnh lời của bà. "Nửa tiếng? Có thể lâu hơn một chút ạ?"

"Lâu thế?" bà chán nản hỏi.

Gon mỉm cười với bà. "Bà có muốn cháu đọc sách cho bà nghe không? Để giết thời gian?"

Abe nhìn cậu, rồi nói, "Không. Bà muốn xem cháu vẽ."

Gon mệt mỏi và chán nản, nhưng cậu không thể từ chối tia hy vọng nhỏ nhoi trong mắt bà. "Được rồi," cậu nói, với lấy chiếc túi của mình, lấy ra cuốn phác thảo và cây bút chì mà cậu luôn mang theo bên mình. Gon ngồi xuống sàn bên cạnh Abe, và Komugi ngồi dựa vào cậu, mắt cô hướng về ngọn lửa. Cậu lật qua vài bản phác thảo cuối cùng của mình—Kaito đang nghiền ngẫm một cái đĩa trống; mây bão trên biển; một vài nghiên cứu về mòng biển đang bay.

Tìm thấy một trang trống, cậu nhìn Abe. "Cháu nên vẽ gì đây?"

Bà cân nhắc rồi nói, "Một thứ gì đó từ hòn đảo."

Đây luôn là yêu cầu từ bà ấy: vẽ những bức tranh về cuộc sống mà họ đã mất. Gon có thể hiểu tại sao bà lại yêu cầu như vậy, nhưng những bức tranh luôn để lại cho bà vẻ khao khát khiến cậu tự hỏi liệu có nên từ chối những yêu cầu này hay không. Thực tế là Gon hầu như chẳng còn nhớ gì về hòn đảo, nên những bức vẽ của cậu chủ yếu là bịa ra, nhưng Abe dường như không nhận thấy.

"Gon?"

"Xin lỗi, cháu đang cố nghĩ ra thứ gì đó."

"Vẽ khu vườn đi," bà gợi ý.

"Khu vườn? Sẽ mất hơn nửa giờ đấy."

"Vậy thì một bông hoa của khu vườn. Một bông hồng. Bà thực sự nhớ những bông hồng..." Ánh mắt bà thấp thoáng, mơ màng.

Gon gật đầu và đặt bút lên giấy. Hoa không phải là thứ mà cậu hay vẽ nhiều, ngược lại rất ít và dường như là một thứ xa xỉ ở khu ổ chuột Idrisi. Nhưng cậu có thể nhớ những bông hồng mà dì Mito đã chăm sóc trên đảo, có bông nhỏ như đồng xu, có bông lớn bằng hai lòng bàn tay.

"Bà hãy nắm chặt tay nhau, như thế này này," cậu nói, diễn tả cho Abe. "Bây giờ bà ngồi yên để cháu vẽ cho đúng nhé."

"Bà có muốn bức tranh về bàn tay đâu," Abe càu nhàu. "Bà muốn một bông hồng!"

"Bà ơi, hãy kiên nhẫn nhé," Gon nói, và bắt đầu phác họa từng đường nét các ngón tay, cuộn thắt cho đến khi không rõ chúng là tay hay cành cây. Sau đó, cậu lấy ra hộp phấn màu quý giá của mình, chọn một màu đỏ thẫm và một vài màu đỏ nhạt hơn. Gon đã quyết định vẽ bông hoa đang bung nở; nhớ lại cái lúc họ ngửi thấy mùi ngọt ngào nhất. Abe cúi xuống gần để xem, từng cánh hoa, bông hồng như mọc ra từ bên dưới bàn tay của Gon. Khi đã hài lòng, cậu lật cuốn phác thảo để bà xem.

"Thật hoàn hảo," Abe nói, cung kính chạm vào một trong những cánh hoa. "Giống y như thật...chỉ là không có mùi."

"Ước gì," Komugi nhẹ nhàng nói, "rằng em có thể ngửi thấy mùi hoa hồng."

Gon thở dài, bởi vì thực sự mà nói, một bức vẽ hoa hồng bằng phấn và bút chì khác xa với thực tế, và đối với Komugi, nó chẳng có ý nghĩa gì cả. Thật đau lòng khi nghĩ rằng cô chưa bao giờ ngửi thấy mùi hoa hồng. Điều đau lòng hơn là bà cố của cậu có thể sẽ không bao giờ có thể nhìn thấy một bông hồng thật nào nữa. Gon xé trang giấy và đưa cho bà.

"Chà," cậu nói, cố gắng không để sự u sầu tràn vào nụ cười của mình, "ít nhất thì bông hồng này sẽ không bao giờ phai nhạt và chết đi."

"Cảm ơn, Ging," Abe nói, nâng niu cầm nó lên và ngắm nghía.

Gon chùn lại trước cái tên, hy vọng bà không chú ý. "Không có chi bà ạ. Và bây giờ, tốt hơn là cháu nên đi kiểm tra bữa tối—"

Trước khi Gon kịp rời khỏi thì Mito đã quay lại, với vẻ mặt lạ lùng nhất mà Gon từng thấy trên khuôn mặt dì. Đó là sự pha trộn giữa kinh ngạc và hoảng loạn và - hy vọng? Thực sự có thể là hy vọng sao?

"Ai gọi thế dì?" Gon lo lắng hỏi.

"Là Bisky," Mito nói, ngồi phịch xuống ghế, mắt cô nhìn về phía xa xăm.

Ôi chúa ơi... Gon nghĩ. Có phải cô ấy gọi điện để sa thải cậu vì chuyện hồi chiều này? Nhưng nếu là vậy, tại sao lại gọi cho Mito? "Cô ấy muốn gì?" cậu buộc mình phải hỏi.

"Một con tàu vừa cập cảng. Một con tàu ma, được tìm thấy đã bị bỏ rơi, mắc cạn trên một đảo san hô ngoài khơi bờ biển phía bắc của Liên minh Begerosse. Họ đã đưa nó đến cảng này, bởi vì—" Mito nhìn Gon rồi nuốt khan. "Bởi vì nó là của Ging."

Trong một khoảnh khắc Gon như đóng băng, nhìn chằm chằm vào người dì như thể cô mọc ra đôi cánh. Rồi cậu ngồi xuống bên cạnh dì trên chiếc ghế bấp bênh. "Ông ấy trở lại?" Giọng cậu run run, chỉ lớn hơn một tiếng thì thầm. Gon đã nghĩ rằng người cha mà cậu hầu như không biết đã không còn là vấn đề. Nhưng Gon đã sai.

Nắm lấy tay Gon, Mito nói, "Không, Gon, dì xin lỗi. Đó là một trong những con tàu của ông ấy, nhưng nó không phải là chiếc mà ông ấy đang đi. Dù sao thì thủy thủ đoàn cũng đã biến mất rồi. Không ai biết chuyện gì đã xảy ra với họ."

Cậu gật đầu. Lẽ ra cậu phải biết điều đó. Ngay cả khi Ging vẫn còn sống ở đâu đó, ông ấy sẽ không bao giờ quay trở lại.

"Nhưng," Mito nói thêm, "hàng hóa của con tàu còn nguyên vẹn, nghĩa là theo luật, nó là của cháu, vì cháu là người thừa kế duy nhất của Ging."

"Thế nghĩa là

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net