LHPTK 8
cử còn được gọi là pháp luật tố tụng bầu cử (Trình tự bầu cử).
Dù chính phủ có thể cơ cấu tổ chức chặt chẽ đến đâu, hoạt động có hiệu quả đến đâu
đi chăng nữa, mà các quan chức – những người đảm trách các chức năng quan trọng của nhà nước không do bầu cử mà ra, cũng là một chế độ phi dân chủ. Chế độ đó chỉ là dân chủ khi các quan chức lãnh đạo chính phủ được bầu ra một cách tự do dân chủ bởi các công dân công khai và công bằng. Cơ chế bầu cử các chế độ chính trị có thể là khác nhau,
1 -Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, 1995, t. 4, tr. 133
(1) Xem, Hồ Chí Minh; Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 1995, t. 4, tr 8
nhưng những yếu tố cơ bản của chúng là giống nhau đối với tất cả các xã hội dân chủ, kể
các dân chủ tư sản lẫn dân chủ xã hội chủ nghĩa: Tất cả các công dân đến tuổi trưởng thành đều có quyền bầu cử, các cá nhân được bảo vệ không bị tác động tiêu cực trong khi
bỏ phiếu, kiểm phiếu công khai và trung thực...
II. CÁC NGUYÊN TẮC BẦU CỬ
Với tính chất quan trọng của bầu cử như vậy, pháp luật bầu cử của chúng ta được xây dựng trên một số nguyên tắc nhất định. Việc bầu cử đại biểu ở nước ta được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các nguyên tắc đó thống nhất với nhau, đảm bảo cho cuộc bầu cử khách quan, dân chủ, thể hiện đúng nguyện vọng của cử tri khi lựa chọn. Các nguyên tắc bầu cử còn quy định quyền và trách nhiệm của cử tri trong bầu cử, trách nhiệm của Nhà nước phải bảo đảm những quy định
về bầu cử. Các nguyên tắc này có thể được pháp luật quy định bằng một quy phạm nhất
định, hoặc bằng nhiều quy phạm trong các văn bản pháp luật bầu cử.
a. Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu
Nhà nước ta là Nhà nước của dân, người dân làm chủ trong việc bầu ra những người
đại diện cho mình. Vì vậy Nhà nước phải tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân đều
có thể tham gia bầu cử. Đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong chế độ bầu cử của mỗi Nhà nước nói chung, trong đó có Việt Nam chúng ta. Mức độ dân chủ của xã hội thể hiện chủ yếu hay về cơ bản thông qua nguyên tắc này. Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu trong bầu cử của nhà nước ta hòan toàn đối nghịch với nguyên tắc hạn chế quyền bầu cử
và ứng cử của các nhà nước phản dân chủ trước đây của nhiều nhà nước tư sản phát triển.
Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu thể hiện tính công khai, dân chủ rộng rãi, đòi hỏi sự
bảo đảm để công dân thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của mình.
Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu được thể hiện ở tính toàn dân và toàn diện của bầu
cử. Bầu cử là công việc của mọi người, là sự kiện chính trị của xã hội, cuộc bầu cử được tiến hành đều khắp trong cả nước nếu đó là bầu cử Quốc hội, trong cả địa phương nếu đó
là bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Nguyên tắc bầu cử phổ thông đầu phiếu là một nguyên tắc hiến định được điều 54
Hiến pháp ghi nhận và cụ thể hoá tại Điều 2 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu
Hội đồng nhân dân:
“Công dân, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu
cử và từ đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo
qui định của pháp luật, trừ những người mất trí và những người bị pháp luật hoặc toà án nhân dân tước các quyền đó".
Khác với các nhà nước tư bản, ở Nhà nước ta quân nhân trong quân đội vẫn có quyền bầu cử và ứng cử. Họ quan niệm rằng quân đội không được tham gia chính trị.
Những người có quyền bầu cử được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn lập danh sách cử tri. Việc lập danh sách cử tri có ý nghĩa quan trọng xác nhận về mặt pháp lý quyền bầu cử của công dân. Về nguyên tắc chỉ những người có quyền bỏ phiếu thì mới có
thể là ứng cử viên đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Danh sách cử tri phải được niêm yết ở nơi ở, nơi công tác để các cử tri kiểm tra xem
xét quyền bầu cử của mình. Trong trường hợp không có tên, hoặc sai tên sai họ... cử tri
có quyền khiếu nại lên chính cơ quan lập danh sách cử tri. Khi nhận được khiếu nại của
cử tri, Uỷ ban nhân dân, hoặc chỉ huy đơn vị quân đội nơi lập danh sách cử tri phải giải
quyết. Nếu cử tri không nhất trí với cách giải quyết của các cơ quan nêu trên, có quyền khiếu nại lên Toà án nhân dân huyện. Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại Toà án phải giải quyết. Quyết định của Toà án là quyết định cuối cùng.
Về tầm quan trọng của cuộc bỏ phiếu, Hồ Chí Minh nói:
“Lá phiếu của người cử tri tuy khuôn khổ nó bé nhỏ, nhưng giá trị của nó vô cùng lớn. Nhân dân ta đã trải qua biết bao gian khổ, hy sinh biết bao xương máu trong cuộc cách mạng đánh đổ thực dân và phong kiến mới giành được nó. Nó chứng tỏ chế độ dân chủ và tự do của Nhà nước ta và quyền làm chủ thực sự của mỗi công dân ta. Vì vậy đi
bỏ phiếu trong cuộc tổng tuyển cử vừa là quyền lợi quý báu, vừa là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi cử tri”.1
b. Nguyên tắc bình đẳng
Nguyên tắc bình đẳng là một nguyên tắc rất quan trọng trong suốt quá trình bầu cử,
từ khi lập danh sách cử tri cho đến khi xác định kết quả bầu cử. Hình thức biểu hiện của nguyên tắc rất đa dạng. Nhưng trước hết ở chỗ mỗi một cử tri đều có số lần bỏ phiếu như nhau. Trong một cuộc bầu cử, mỗi một cử tri chỉ có một lá phiếu. Đủ tiêu chuẩn theo quy định của luật bầu cử thì được lập danh sách cử tri. Muốn cho cử tri chỉ có một lá phiếu trong một cuộc bầu cử thì mỗi một cử tri chỉ được ghi tên trong một danh sách của một cuộc bầu cử.
Nguyên tắc bình đẳng bảo đảm để mọi công dân có khả năng như nhau trong việc tham gia bầu cử, nghiêm cấm mọi sự phân biệt dưới bất cứ hình thức nào. Nguyên tắc bình đẳng nhằm đảm bảo sự khách quan trong bầu cử, không thiên vị.
Nguyên tắc này thể hiện trong quy định của pháp luật về quyền bầu cử và ứng cử của công dân; quy định số lượng dân như nhau thì được bầu số đại biểu bằng nhau; mỗi cử tri được ghi tên vào danh sách ở một nơi cư trú, mỗi người chỉ được ghi tên ứng cử ở một đơn vị bầu cử, mỗi cử tri chỉ được bỏ một phiếu bầu.
Để đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, Nhà nước có các biện pháp bảo đảm để đồng bào dân tộc cũng như phụ nữ có số đại biểu thích đáng trong Quốc hội và thích đáng trong Hội đồng nhân dân các cấp.
c. Nguyên tắc bầu cử trực tiếp
Nguyên tắc này đảm bảo để cử tri trực tiếp lựa chọn người đủ tín nhiệm vào cơ quan quyền lực Nhà nước bằng lá phiếu của mình không qua khâu trung gian. Cùng với các nguyên tắc khác, nguyên tắc này là điều kiện cần thiết đảm bảo tính khách quan của bầu
cử.
Không phải nước nào trên thế giới cũng bầu cử theo nguyên tắc trực tiếp. Ở nhiều nước bầu cử được tiến hành gián tiếp qua nhiều cấp. Thường ở các nước này cử tri bầu ra
đại cử tri, đại cử tri bầu ra người đại diện. Những cuộc bầu cử này được gọi là những cuộc bầu cử gián tiếp.
Trên cơ sở nguyên tắc bầu cử trực tiếp, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu
cử Hội đồng nhân dân ở nước ta có một loạt quy định nhằm đảm bảo để cử tri trực tiếp
thể hiện nguyện vọng của mình từ khâu đề cử, ứng cử đến khâu bỏ phiếu; Cử tri tự mình
đi bầu, tự tay mình bỏ phiếu vào thùng phiếu; không được nhờ người khác bầu thay, không được bầu bằng cách gửi thư.
1 Xem, Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđ d, t. 11, tr. 247
d. Nguyên tắc bỏ phiếu kín
Nguyên tắc này bảo đảm cho cử tri tự do lựa chọn, để sự lựa chọn đó không bị ảnh hưởng bởi những điều kiện và yếu tố bên ngoài. Pháp luật quy định rõ việc bố trí nơi viết phiếu phải kín, không có ai được đến xem lúc cử tri viết phiếu bầu.
Bầu cử là hoạt động có tính chất dân chủ. Hoạt động này luôn luôn gắn liền với nguyên tắc công khai. Tất cả mọi công đoạn của bầu cử phải diễn ra công khai, nhưng chỉ riêng công đoạn bỏ phiếu phải diễn ra trong phòng kín, không có sự tham gia của bất cứ nhân vật nào, kể cả nhân viên phụ trách công việc bầu cử tại phòng bỏ phiếu.
III. QUYỀN BẦU CỬ VÀ ỨNG CỬ
Chế độ bầu cử với tư cách là một chế định quan trọng của ngành luật hiến pháp được chia 2 chế định nhỏ là quyền bàu cử và quyền ứng cử. Quyền bầu cử và ứng cử là quyền chính trị quan trọng bảo đảm cho công dân có thể tham gia vào việc thành lập ra những
cơ quan quan trọng nhất của mỗi quốc gia. Theo quy định của Hiến pháp Việt Nam công dân Việt Nam có quyền bầu cử và ứng cử vào hai cơ quan đại diện quyền lực nhà nước
của nhà nước Cộng hòa xã hội chủnghĩa Việt Nam. Đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
a. Quyền bầu cử
Quyền bầu cử là quy định của pháp luật về khả năng của công dân thực hiện quyền lựa chọn người đại biểu của mình vào cơ quan quyền lực Nhà nước
“Quyền bầu cử” không những chỉ là quyền bỏ phiếu mà còn bao gồm quyền đề cử
tức là khả năng chủ động trong lựa chọn những người có khả năng thay mặt mình trong
cơ quan đại diện. Cũng có khi “quyền bầu cử” được dùng với nghĩa bầu cử nói chung bao gồm cả quyền đề cử, bỏ phiếu và quyền được bầu vào cơ quan đại diện. Nếu dùng khái niệm này thì phải phân biệt quyền bầu cử chủ động (quyền đề cử bỏ phiếu) và quyền bầu
cử thụ động (quyền có thể được bầu). Về nguyên tắc chỉ có quyền bầu cử thì mới có quyền được bầu, không có điều ngược lại. Hay nói một cách khác quyền bầu cử chủ động
là tiên quyết của quyền được bầu tức là bầu cử thụ động.
Vì tính chất quan trọng của quyền bầu cử nên quyền bầu cử chỉ được quy định cho những người phát triển bình thường về mặt thần kinh, đạt đến độ chín chắn của sự phát triển tâm, sinh lý nhằm bảo đảm cho họ có sự lựa chọn chính xác và độc lập.
Điều 54 của Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp theo quy định của pháp luật, trừ những người mất trí và những người bị pháp luật hoặc Toà án nhân dân tước các quyền đó”.
Hầu hết các nước trên thế giới đều quy định độ tuổi của công dân để có quyền bầu cử
là mười tám. Cũng có nước chỉ quy định chung: Tất cả các công dân đến tuổi trưởng thành đều có quyền tham gia bầu cử (Hung ga ri). Cũng có nước quy định công dân đủ 16 tuổi là có quyền bầu cử (Cu Ba)
Pháp luật của một số nước khác thường có những quy định về tài sản, thời hạn định
cư, trình độ văn hoá để hạn chế quyền bầu cử của cử tri. Chúng ta không quy định những
điều kiện như vậy. Ngoài các quy định về độ tuổi là quy định cần thiết bảo đảm sự lựa chọn của cử tri, pháp luật ta không quy định điều kiện nào khác.
Để tránh tuỳ tiện trong việc hạn chế quyền bầu cử của công dân trường hợp những người mất trí, những người bị pháp luật hoặc Toà án nhân dân tước quyền bầu cử được quy định trong các văn bản pháp luật. Những trường hợp công dân không được bầu cử là:
1 - Những người bị tước quyền bầu cử, bao gồm: a/ Người đang trong thời kỳ bị tước quyền bầu cử theo bản án đã có hiệu lực của toà án. b/ Người đang bị quản chế theo bản
án đã có hiệu lực của toà án.
2 - Những người không được sử dụng quyền bầu cử, bao gồm:
a/ Người đang chấp hành hình phạt tù; b/ Người đang bị bắt, đang bị tạm giữ, đang bị tạm giam theo quy định của pháp luật. c/ Người đang trong thời gian bị tập trung giáo dục, cải tạo theo quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương được Chính phủ phê duyệt
Để xác định những người thuộc diện mất trí không được tham gia bầu cử, Bộ Y tế đã
ra hướng dẫn cụ thể vấn đề này. Những người mất trí là những người bị bệnh tâm thần, không tự chủ về suy nghĩ, hành động, không phân biệt được đúng, sai, phải, trái, có những rối loạn về nhận thức tư duy, tình cảm và hành vi. Những bệnh nhân tâm thần phân liệt và động kinh đang chữa ngoại trú, nhưng được chuyên khoa tâm thần xác định
là đã ổn định, sinh hoạt và làm việc bình thường, hoạt động tư duy, tình cảm và hành vi
đúng đắn, vẫn được quyền bầu cử.
Ở nước ta, quyền bầu cử được coi là quyền chính trị quan trọng, là vinh dự của công dân. Công dân thực hiện quyền đó tự nguyện. Vì vậy mà các cuộc bầu cử có số cử tri tham gia rất đông (thường là khoảng trên 80%). Ở một số nước, bỏ phiếu không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của công dân (Mehico); bầu cử là nghĩa vụ của mỗi người, trốn tránh là vi phạm nghĩa vụ trước Tổ quốc (Italia).
Hình thức ghi nhận quyền bầu cử của công dân là danh sách cử tri. Công dân có quyền bầu cử cư trú thường xuyên hay tạm thời ở đâu đều được ghi tên vào danh sách cử
tri ở nơi đó. Để bảo đảm quyền bầu cử của công dân, pháp luật đã quy định cụ thể việc
lập niêm yết và thông báo rộng rãi danh sách cử tri. Pháp luật còn quy định thủ tục khiếu nại và xem xét, giải quyết khiếu nại về vấn đề này.
b - Quyền ứng cử
Quyền ứng cử là quy định của pháp luật về khả năng của công dân thể hiện nguyện vọng của mình được bầu làm đại biểu. Về nguyên tắc so với quyền bầu cử, quyền ứng cử được pháp luật đòi hỏi cao hơn về chất. Mọi công dân Việt Nam có quyền bầu cử (nói ở phần trên) đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử.
Quyền ứng cử của công dân thể hiện ở sự chấp thuận việc người khác đề cử mình hoặc việc công dân tự ra ứng cử.
Ngay từ khi nhà nước ta ra đời đến nay, pháp luật đã có những quy định về quyền
ứng cử của công dân. Điều 12 của Sắc lệnh số 51 ghi rõ “Người ứng cử được tự do ứng
cử nơi mình chọn lấy nhưng chỉ một nơi ấy thôi”. Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959
đều quy định quyền ứng cử công dân. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội 1959 còn quy định
“cá nhân có quyền tự ra ứng cử” (Điều 24).
Cùng với việc xây dựng quyền làm chủ tập thể, Hiến pháp 1980 đã coi quyền ứng cử
như một quyền thụ động và chỉ là khả năng “có thể được bầu” của công dân. Thực hiện
chủ trương tích cực hoá vai trò của công dân tham gia vào bầu cử, Hiến pháp 1992 và
Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1994 đã quy định quyền bầu cử và quyền
tự ứng cử của công dân.
So với quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân có những yêu cầu cao hơn. Trước hết, là độ tuổi. Công dân từ mười tám tuổi trở lên thì có quyền bầu cử, nhưng phải đủ hai mươi mốt tuổi trở lên mới có quyền ứng cử. Ngay từ Hiến pháp 1946 đã quy định: “Người ứng cử là người có quyền bầu cử, phải ít ra là hai mươi mốt tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ” ( Điều 18).
Ngoài quy định về tuổi, Hiến pháp và các luật bầu cử hiện hành không quy định điều kiện nào khác đối với quyền ứng cử của công dân. Nhưng để thực hiện quyền ứng cử của công dân phải đạt được một số tiêu chuẩn nhất định. Trước đây, Luật bầu cử không quy định tiêu chuẩn. Nhưng, thực tế cuộc sống yêu cầu có những tiêu chuẩn để cử tri theo đó
mà lựa chọn.
Điều 3 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân đều quy
định: “Đại biểu phải là người trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, có hiểu biết
về quản lý Nhà nước, kinh tế, xã hội, hiểu biết và gương mẫu chấp hành pháp luật, có năng lực thực hiện nhiệm vụ người đại biểu, kiên quyết đấu tranh bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân”.
Dựa vào tiêu chuẩn này, các công dân tự ứng cử và các tổ chức xã hội thuộc Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam giới thiệu, đề cử ứng cử viên.
Trong việc thực hiện quyền ứng cử của công dân, pháp luật hiện hành quy định công dân có quyền bầu cử, ứng cử. Nhưng để được ghi tên vào danh sách ứng cử công dân Việt Nam phải được Mặt trận Tổ quốc Việt nam hiệp thương giới thiệu.
Pháp luật nhiều nước trên thế giới có các quy định về điều kiện ứng cử. Các điều kiện đó tập trung chủ yếu vào quy định không được kiêm nhiệm một số chức vụ Nhà nước nhất định (bất khả kiêm nhiệm), quy định thời hạn cư trú, quy định về giá trị tài sản
và việc đặt cọc tiền. Để thực hiện quyền ứng cử, công dân các nước đó phải được một
đảng giới thiệu hoặc thu nhập một số luợng chữ ký những người ủng hộ mình. Luật bầu
cử của Hung ga ri quy định phải thu nhập được 750 chữ ký. Một số nuớc khác thì quy định phải nộp tiền cọc vào nhà băng. Số tiền này ở Pháp quy định là 1000 frăng, đối với ứng cử vào ghế nghị sĩ Quốc hội.
IV. SỐ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
Để Quốc hội làm tròn chức năng của mình, Quốc hội cần có một số lượng đại biểu thích hợp.
Tổng số đại biểu Quốc hội được quy định dựa trên cơ sở:
1. Yêu cầu nhiệm vụ vủa Quốc hội
2.Tỷ lệ dân mà đại biểu đại diện.
3. Khả năng tài chính mà Nhà nước có thể bảo đảm để đại biểu hoạt động. ở nước ta, tổng số đại biểu Quốc hội cần được quy định đủ đảm bảo cơ cấu, thành phần của Quốc
hội phản ánh khối đại đoàn kết dân tộc, bảo đảm hiệu lực của Quốc hội.
Có hai cách ấn định tổng số đại biểu Quốc hội: ấn định số theo tỷ lệ dân hoặc ấn định con số cụ thể trong luật bầu cử. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội 1992 đã quy định: “Tổng
số đại biểu nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam không quá năm trăm người” (Điều
7).
Trong tổng số đại biểu Quốc hội, các dân tộc thiểu số được giành một tỷ lệ đại biểu thích đáng. Tỷ lệ đại biểu Quốc hội người dân tộc thiểu số thường chiếm trên 14%. Thủ
đô Hà Nội cũng được dành số đại biểu đủ đại diện cho các tầng lớp nhân dân Hà Nội - trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả nước.
Hội đồng nhân dân xã, phường thị trấn được bầu tối đa là 35, tối thiểu là 25 đại biểu. Hội đồng nhân dân huyện và tương đương được bầu tối đa là 40 tối thiểu là 30 đại
biểu.
Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được bầu tối đa 95, tối thiểu 50 đại biểu.
So với những quy định của pháp luật trước đây thì tổng số đại biểu Quốc hội cũng như tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp giảm từ 1/4 đến 1/3 . Việc giảm số lượng để nhằm mục đích tăng chất lượng. Tổng số đại biểu Quốc hội khoá IX (1992 -
1997) là 396 đại biểu. Tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp khoá 1994 - 1995 là
233.332 đại biểu. Trong đó cấp tỉnh 3.109; cấp huyện 14.523; cấp xã 213.700.
V. CÁC TỔ CHỨC PHỤ TRÁCH BẦU CỬ
Để phụ trách tổ chức việc bầu cử, trong mỗi cuộc bầu cử thành lập Hội đồng bầu cử, Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử và tổ bầu cử.
a. Hội đồng bầu cử
Để phụ trách bầu cử đại biểu Quốc hội trong phạm vi cả nước chậm nhất là chín mươi ngày trước ngày bầu cử Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập Hội đồng bầu cử từ mười lăm đến hai mốt người gồm đại diện Mặt trận tổ quốc Việt Nam, đại diện Uỷ ban thường vụ Quốc hội và đại diện chính phủ.
Hội đồng bầu cử có những nhiệm vụ và quyền hạn:
• Lãnh đạo việc tổ chức bầu cử trong cả nước, kiểm tra đôn đốc việc thi hành các quy
định của pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội.
• Công bố danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội theo trình tự bầu cử
trong cả nước.
• Xét và giải quyết khiếu nại về công tác của các Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử và Tổ bầu cử; xem xét và giải quyết khiếu nại về công tác bầu cử do Uỷ ban bầu cử hoặc Ban bầu cử chuyển đến.
• Tiếp nhận và kiểm tra biên bản bầu cử do Uỷ ban bầu cử hoặc ban bầu cử gửi đến, làm biên bản tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước;
• Xét và quyết định việc bầu lại, bầu thêm hoặc huỷ bỏ kết quả ở các đơn vị bầu cử;
• Tuyên bố kết quả bầu cử trong cả nước;
•
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net