nam hoa kinh2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng
theo chế độ," thích theo cái thích của mọi người mà không biết thích theo cái thích của mình" (7)

Theo Trang tử, Tánh (tự nhiên) của vạn vật, thì không đồng nhau: mỗi vật đều có chỗ nhận cho là đẹp, là hay, là phải, riêng của vật ấy. Cho nên không cần phải cưỡng ép cho tất cả đều đồng nhau, mà cũng không sao cưỡng ép cho đồng được. Chỗ không đồng của vạn vật, ta phải biết nhận lãnh nó, biết" chịu" nó, đó tức là dùng chỗ" không đồng" mà làm cho" đồng" vậy. Trái lại tất cả mọi chế độ chính trị, xã hội theo hữu vi đêù định ra" một cái tốt" để làm tiêu- chuẩn chung cho mọi tư tưởng hành vi, khiến người người đều phải theo nó mà hành động. đó là ép những chỗ không đồng phải đồng nhau. Yêu, mà yêu theo chỗ thích riêng của mình, là làm đau khổ cho vật mình yêu vậy. Cho nên các bậc thánh nhân lập ra " quy củ chuẩn thằng" cùng các thứ quy tắc chế độ để định chế chánh trị xã hội, khiến cho người người trong thiên hạ đều phải phục tùng theo, chỗ dụng tâm, tuy chưa phải là không có lý do chánh đáng và tốt đẹp, và chỗ dụng ý tuy không phải là không thực yêu người... nhưng, kết quả thì lại như Lỗ- Hầu nuôi chim...

" Xưa kia, có con chim biển đậu ở cửa thành nước Lỗ... Lỗ hầu ngự ra ra nghinh tiếp, rước về chuốc rượu ở đền Thái- miếu, cho tấu nhạc Cửu thiều cho nó vui, giết trâu bò mời nó ăn... Chim ấy ngó dớn dác, bộ sầu bi không dám ăn, dám uống. Cách ba hôm thì chết. đó là dùng cách nuôi người mà nuôi chim. Nếu như muốn dùng cách nuôi chim mà nuôi chim, thì phải để cho nó đậu ở rừng sâu, dạo ngoài gò đất, trôi nổi sông hồ, kiếm ăn lươn cá, đỗ theo hàng liệt, ung dung tự đắc, thích đâu ở đó. Cứ nghe người nói là nó không ưa rồi, lựa là còn đem tiếng nhạc mà làm cho nó kinh tâm. Nếu đem nhạc Hàm trì, Cửu thiều mà đánh lên ở Động- đình, thì chim nghe phải bay, thú nghe phải chạy, cá nghe phải lặn... nhưng người ta thì lại kéo nhau đến đó mà nghe. Cá ở dưới nước thì sống, người ở dưới nước thì chết. Đó và đây đã khác nhau, thì sự ưa ghét cũng khác nhau. Bởi vậy, bậc thánh ngày xưa không giống nhau về sở năng, nên không giống nhau về sự nghiệp". (Chí- Lạc)

Như vậy, ta thấy rằng không phải Lỗ Hỗu không có thiện ý, nhưng kết quả thì lại khác hẳn với ý muốn của mình: hại mà không có lợi. đó cũng là hậu quả của những kẻ muốn dùng luật pháp, luân lý để mà điền chế tư tưởng hành vi của thiên hạ.

Bởi thế, Trang học cực lực phản đối cái cách " lấy trị mà trị thiên hạ" (dĩ trị, trị thiên hạ) . Muốn khiến cho thiên hạ được trị, không chi bằng" lấy sự không trị, mà trị thiên hạ" (dĩ bất trị, trị thiên hạ) . Thiên Tại- Hựu nói:" Ta nghe phòng và giữ thiên hạ, chứ không nghe chuyện trị thiên hạ. Phòng, là sợ thiên hạ đắm đuối mà mất tánh; giữ là sợ thiên hạ dời đổi mà mất đức. Thiên hạ mà không đắm đuối đến mất TánThiên, không dời đổi đến mất Đức, thì sao lại có chuyện trị thiên hạ?" Dù sao đi nữa, bất đắc dĩ mà phải dùng đến luật pháp, luân lý, chính trị, chế độ... thì luật pháp, luân- lý, chính trị, chế độ cũng phải có mục đích duy nhất nầy là phụng sự cho cá nhân, chứ không được đem" Người mà giết Trời, đem nhân tạo mà giết thiên nhiên..."

Lão tử và Trang tử đều chủ trương" Vô vi nhi trị", một chế độ không có chế độ, một chánh thế không có chánh thế, nhưng mỗi người theo những lý do riêng.

Lão tử thì nhấn mạnh về Đạo, và vấn đề phản- phục:" Phản giả Đạo chi động". Còn Trang tử thì nhấn mạnh về sự phân biệt giữa thiên nhiên và nhân tạo:" người không được giết Trời, nhân tạo không được lấn thiên nhiên", vì làm thế là làm cho nhân dân thống khổ: không phát triển được tự do Bản tánh của mình.

***

E. Vấn đề Hạnh- Phúc tương đối và tuyệt đối:

Cái hạnh phúc nói trên đây, chỉ là một thứ hạnh phúc tương đôi, vì nó còn phải có điều kiện, nghĩa là còn phải tùy thuộc vào cái gì. Thật vậy, người ta sở dĩ có được hạnh phúc là khi nào được tự do sống theo bản tánh của mình.

Như vậy, xã hội, chế độ... như đã nói trên, chỉ là một trong những điều kiện không thuận tiện cho sự phát triển tự do bản tánh con người trên con đường hạnh phúc.

Cũng có nhiều trở ngại khác không kém quan trọng khiến cho ta khó thực hiện được hạnh phúc, là vấn đề" lão", "bệnh", và "tử". Như vậy, ta thấy rằng Phật giáo không phải là không có ký, khi họ đề xướng thuyết" sanh, lão, bệnh, tử: khổ" người tự do không những không bị ràng buộc về pháp luật, luân lý, chế độ, xã hội bên ngoài, mà cũng là người không còn sợ già, sợ bệnh, sợ chết nữa.

Già không đáng sợ. đáng sợ là nên sợ cái già mà đầy bệnh tật. Vì vậy, người ta muốn được hạnh phúc, cũng phải biết lo đến phép dưỡng sinh. Người mạnh khỏe không sợ già, cũng không sợ chết nữa. Trong mọi tai họa, tai họa đáng sợ nhất của con người là tật- bệnh. Người hay đau yếu, bệnh tật là người dễ sa vào ích kỷ: thường săn sóc săm soi đến thân thể nên dễ đem lòng quyến luyến và yêu thương. Lão tử cũng đã có nói:" Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân. Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn!" (Chương 13 Đạo- Đức- Kinh) . Cho nên, dưỡng sinh là thuật làm cho mình luôn luôn mạnh khỏe, để mà không có cơ hội thiết tha nghĩ đến thân thể của mình.

Người xưa có nói:" Một thân thể không đau, một tinh thần không loạn, đó là chân hạnh phúc của con người. Có được một thân thể không đau, thì tinh thần mới không loạn; nhưng thường khi, nhờ có một tinh thần không loạn, mới có được một thân thể không đau. đó là hai điều không thể rời nhau: ảnh hưởng của vật chất đối với tinh thần va ảnh hưởng của tinh thầ đối với vật chất. Nhưng bàn về phần cao nhất của phép dưỡng sinh thì người Đông phương coi trọng phần ảnh hưởng của tinh thần hơn.

"Điềm đạm hư vô,

Chân khí tùng chi,

Tinh thần nội thủ,

Bệnh an tùng lai."

(Hoàng- Đế Nội- Kinh)

(Chương Đạo- Sinh)

Thượng- Cổ Thiên- chân luận

***

Ở thiên Dưỡng- sinh- Chủ, Trang tử nói:" Ngô sinh đã hữu nhai, nhi tri đã vô nhai. Dĩ hữu nhai tùy vô nhai, đãi dĩ!" (Sinh lực của ta thì có hạn, mà nỗi lo nghĩ ưu lự thì vô hạn, là nguy vậy!) . Vì vậy mà phép dưỡng sinh chiếm địa vị khá quan trọng trong học thuyết Trang tử và về sau phái Đạo gia lại khai thác nó lập ra thành một học phái đặc biệt là phái" trường sinh cửu thị".

***

Nhưng, mối băn khoăn lo sợ nhất làm cho con người thương- sinh (8) và đã biến con người thành con vật đau khổ nhất đời là lòng ham sống sợ chết (tham sinh úy tử) .

Ta hãy nhìn kỹ chung quanh, xem sự bành trướng mạnh mẽ của tôn giáo thì đủ rõ vấn đề sinh tử là quan trọng đến bực nào! Người hoàn toàn tự do là người thoát khỏi cái tâm trạng" tham sinh úy tử", người biết nhìn thấy sinh tử là Một. Sự băn khoăn lo sợ sự sống chết sẽ giảm được hoặc dứt đi nếu ta hiểu rõ được cái lý của sống chết. đó là cái phép" lấy Lý mà hóa Tình" của Trang tử.

***

Thiên Dưỡng- sinh- chủ nói:" Lão Đam chết. Tần Thất đến điếu, khóc ba tiếng, rồi đi ra. đệ tử hỏi:" Ông không phải là bạn của phu tử hay sao?

Phải.

Vậy thì, điếu như thế là phải hay sao?

Phải. Trước kia ta xem Lão Đam là bạn ta. Nay xem lại đó, thì không phải nữa. Lúc ta vào điếu, thấy có già khóc đó như cha khóc con; trẻ khóc đó như con khóc mẹ. đó là tròn thiên tánh, già thêm tình và quên chỗ mình tọ lãnh của tạo hóa. Cổ nhơn gọi đó là hình- khổ của sự trốn thiên tánh. Phụ tử vui mà đến, là thời; vui mà đi, là thuận. An thời xử thuận thì buồn vui làm sao vào đặng cõi lòng. Cổ nhơn gọi đó là" huyền giải".

Trong Trời Đất, chỉ có một cái" Sống", cái" Sống" không sinh không tử. Sống Chết chỉ là cái hình thức của một cuộc biến hóa của cơ Đại Hóa của Trời Đất. Cái" Sống" ấy chính là cái mà Lão tử gọi"tử nhi bất vong giả thọ" (chết mà không mất) .

Hình thức này mà có mất đi, thì cái" Sống" ấy lại đi về một chỗ khác. Cũng như trong một thân cây, lá này rụng, thì cái sống trong lá cây" trở về" trong thân cây mà sanh ra lá khác, cùng hoa trái khác...cái mà ta gọi là sống chết đây, chỉ là một sự " thành, hủy" của một trạng thái trong vạn hóa của Trời Đất Vạn vật mà thôi. Trang tử đã ví sự sống chết như một bó củi" cột lại" và " mở ra". Sinh là Huyền, tử là Giải. Huyền là cột lại, Giải là tháo ra.

Sống chết chẳng qua là" một đi một lại" nối tiếp nhau, còn cái Sống, tức là Chân- thế của ta, thì luôn luôn như thế mãi, không thay đôỉ.

Cái Sống của Chân thế, đối với hình thể của ta, ví như" lửa" mà đối với" củi": từ hình thể này truyền qua hình thể kia như" lửa" truyền từ bó củi này sang bó củi kia:" không khác nào hỏa cứ truyền mãi mà không tắt, cái sống truyền mãi mà không bao giờ tuyệt".

Chết, là từ một cảnh nầy, đổi qua một cảnh khác... Từ cảnh nầy đổi qua cảnh khác mà lo sợ, thì là một việc lo sợ hão như cảnh nàng Lệ Cơ..." Nàng Lệ Cơ, con một vị quan trấn thủ phong cương xứ Ngại, gả về cho Vua nước Tần. Lúc xuất giá, rơi lụy dầm bâu. Khi tới hoàng cung, cùng Vua đồng sàng, nếm mùi sô- hoạn, rồi nàng lại hối hận giọt lệ ngày xưa" (Tề- Vật- Luận) .

Chết mà lo sợ thì có khác nào ta sợ trước cái cảnh mà mình chưa biết. biết đâu rằng, sau nầy ta lại giống như nàng Lệ Cơ, sau khi đến hoàng cung bấy giờ lại hối hận giọt lệ ngày xưa mà không chịu trở về quê cũ. Nếu ta cho hình thức hiện có đây là đáng vui, thì sau khi chết, chỗ ta đặng hình thức mới khác, sao lại biết là không có chỗ đáng vui như bây giờ? nghĩ lại lúc mà ta chưa là người như ngày nay, có lẽ lúc lìa cảnh đó để sang qua cảnh đây, biết đâu ta cũng đã" rơi lụy đầm bâu", quyến luyến dùng dằng, và cho sự thay đổi hoàn cảnh là một tai họa. Và hiện nay, nghĩ lại cái" giọt lệ ngày trước" ta cũng sẽ lấy làm hối hận." Trong muôn vàn hình thức của vạn vật, hình thức của người là một. Gặp được hình thức ấy, chưa đủ riêng vui với nó, bởi trong vô cực, chỗ" gặp mới" của vạn vật thì vô cùng... Một chỗ" gặp mới" như đây mà còn biết vui, há chỉ có một chỗ này mà thôi sao?" Lời chú đây của Quách Tượng thật rõ ràng hết sức.

Hình thức con người là một trong muôn vàn hình thức của vạn vật. Như vậy, gặp hình thức nào cũng đáng vui mừng cả, há chỉ có hình thức con người đáng vui mừng mà thôi sao? " Giá như cánh tay trái ta biến thánh con gà thì ta nhân đó mà gáy canh. Giá như cánh tay mặt ta hóa làm hòn đạn thì ta nhân đó mà kiếm chim quay. Giá như hóa cái xương cùng của ta làm bánh xe, hóa thần hồn ta làm con ngựa thì ta nhân đó mà cưỡi, há còn đợi xe ngựa nào nữa? Vả" đắc" là thời," thất" là thuận. An thời xử thuận thì buồn vui làm sao vào đặng cõi lòng!" Vì vậy, bậc chân- nhân xưa" không ham sống, không ghét chết, ra không vui, vào không sợ, thản nhiên mà đến, thản nhiên mà đi. (Đại- Tông- Sư) .

"Xưa, Trang Châu chiêm bao, thấy mình là bướm, vui phận làm bướm: tự nhiên thích chí không còn biết Châu. Chợt tỉnh giấc, thấy mình là Châu. Không biết Châu lúc chiêm bao là bướm, hay bướm lúc chiêm bao là Châu? Châu cùng bướm ắt có phận định" (Tề- Vật- Luận) .

Bàn về vấn đề sinh tử mà lại dùng đến Thực và Mộng như chuyện Trang Châu mộng hồ- điệp mà nói, thì thâm trầm sâu sắc không biết chừng nào! Thật là văn chương huyễn- tướng lạ thường.

***

Theo Trang tử, muốn trấn tĩnh lòng cảm xúc của con người trước vấn đề sinh tử, cũng như đối với tất cả mọi xúc cảm khác dễ làm cho ta thương sinh, thì phải dùng đến phép" lấy Lý mà hóa Tình". Người trí thức, biết rõ được chân tướng của Vũ Trụ, biết được chỗ phát sinh của sự vật là việc tất nhiên... thì khi gặp việc sẽ không động cảm mà giữ được vẻ thản nhiên trầm tĩnh bên ngoài cũng như bên trong. Không động cảm, là không bị trói buộc, nghĩa là được tự do và hạnh phúc vậy. Tỉ như gió thổi ngói bay, rớt nhằm một đứa trẻ hoặc một kẻ lớn. Đứa trẻ nóng giận, nguyền rủa và quy tội cho miếng ngói vô tình; còn kẻ lớn, trái lại, biết là không lỗi nơi đâu cả, cho nên không động cảm, không bực tức và nhờ đó mà chỗ đau cũng bớt đau. Là vì, tri thức của người lớn biết rõ cái lý do của miếng ngói rớt, nên" lấy Lý mà hóa Tình"," buồn vui vì đó mà không vào đặng cõi lòng!"

Trở lên là bàn đến hạnh phúc tương đối.

***

Còn muốn bàn đến hạnh- phúc tuyệt đối, thì phải bàn đến Tự- Do tuyệt đối.

Muốn đi đến hạnh phúc tuyệt đối, tức là Tự Do tuyệt đối, thì cần phải dùng đến một thứ tri thức siêu đẳng để mà đạt đến chỗ Huyền- đồng cùng vạn vật.

Thiên Tiêu- Diêu- Du, sau khi bàn về hạnh phúc tiêu diêu của chim Bằng, cũng như của chim cưu, có nói đến Liệt- tử cỡi gió mà đi..." Liệt- tử cỡi gió mà đi, đi một cách êm ái nhẹ nhàng, đi trọn mười lăm hôm mới về. Đó sống trong chỗ chí phúc và người như ông dễ thường thấy có. Tuy khỏi phải đi, nhưng còn phải chờ..." Chờ cái gì? Gió.

Như vậy, thì cái hạnh phúc của Liệt- tử cũng chưa được gọi là tuyệt đối, là vì còn phải tùy một điều kiện khác ở ngoài.

Chỉ có những ai" thuận theo cái chánh của Trời Đất, nương theo cái biến của lục- khí mà rong chơi trong cõi vô cùng; thì đó đâu còn phải đợi cái gì nữa. Cho nên nói rằng: bậc chí nhân không thấy có mình, bậc thần nhân không nhớ đến công trạng của mình, bậc thánh nhân không nghĩ đến tên tuổi của mình." (Tiêu- Diêu- Du)

Trang tử, trên đây, tả hạng người hoàn toàn giải thoát, tức là người đã đạt đến hạnh phúc tuyệt đối, bậc chí nhân đã huyền- đồng cùng tạo vật, nên không còn thấy mình nữa. Họ là người đã vượt lên trên những cặp mâu thuẫn mà thế nhân thường nhận thấy: phải quấy, vinh nhục, trước sau, cao thấtử, lớn nhỏ, sanh tử... Họ là người đã giải quyết được sự mâu thuẫn to tát nhất nơi họ: tình và lý, tâm và trí, nội và ngoại, nhĩ ngã. Không còn thấy có" nhĩ", tức là không còn thấy có" ngã", họ là người đã đạt đến trạng thái" vô- ngã". " Vô ngã", nên cũng" vô- công" và " vô danh".

Đã là" vô- kỷ", " vô công"," vô danh" nên họ đã là Một với Đạo." Đạo thì không làm mà không có gì là không làm". Và nhân đó mà hành động của họ không còn gọi là hành động của tư tâm tư dục nữa, mà là hành động của Đạo, của Chân- thế, của Vô- Ngã. Hành động ấy là hành động" Vô- vi" của Đạo nơi ta vậy.

***

Để đi đến sự Huyền- Đồng, bậc Chân- nhân phải" biết quên thị phi" (tri vong thị phi) .

Theo nghĩa thông thường của thế nhân thì" biết" là " biết" bằng sự phân biệt. Phải dứt bỏ lối nhận thức ấy để đi đến một thứ nhận thức siêu- đẳng khác mà các nhà Đạo- học gọi là" tri bất tri, thượng" (9) .

Phùng hữu Lan gọi đó là" kinh nghiệm thuần túy" tức là kinh nghiệm của Vô Tri Thức, và cũng là chỗ mà nhà Phật gọi là Hiện- lượng, Thiên- định, Thiển- tọa, và về sau phái Thần- tiên của Đạo- giáo gọi là Tĩnh- tọa. Thuần túy kinh nghiệm, là sự thực nghiệm Đạo ở bản thân, trong đó không còn cần đến suy lụân, đối đãi... mà nhận thức trực tiếp Thực tại không chủ khách, không nội ngoại vì những cặp đối đãi ấy đã đồng nhất, và đã biến mất trong tâm mình rồi.

***

Thiên Đại- Tông- Sư có đoạn văn này:

" Nhan Hồi nói: Hồi được thêm!

Trọng- Ni hỏi: Là nghĩa gì?

Nhan Hồi nói: Tôi quên Nhân Nghĩa.

Trọng Ni nói: Được, nhưng mà chưa trọn.

Một hôm khác, lại ra mắt và nói:

Hồi được thêm.

Là nghĩa gì thế?

Hồi quân Lễ Nhạc.

Được, nhưng chưa trọn.

Một hôm khác nữa, lại ra mắt mà rằng:

Hồi được thêm.

Là nghĩa gì?

Hồi" ngồi mà quên" rồi.

Trọng Ni ngạc nhiên hỏi:

Ngồi mà quên, là thế làm sao?

Nhan Hồi nói: Giải thể, bỏ thông minh, lìa hình, bỏ trí, đồng với Đạo lớn. đó gọi là" ngồi mà quên" (tọa vong) .

Trọng Ni nói:" Đồng, thì không còn tham muốn nữa; hóa, thì không thường nữa. Quả Hồi là người hiền. Khưu nầy nguyện theo sau đó."

***

Chương đầu thiên Tề- Vật- Luận cũng có nói:

" Quách Tử- Kỳ ngồi dựa ghế, ngửa mặt hà hơi, bơ phờ như người mất bạn.

Nhan- Thành Tử- Du đứng hầu trước mặt, thấy vậy, hỏi:" Sao mà hình hài có thể khiến được như cây khô, còn lòng thì có thể khiến được như tro lạnh. Nay người ngồi trên ghế có phải là người ngồi trên ghế trước đây nữa không?

Tử- Kỳ nói:" Yển, câu hỏi của ngươi đâu phải là không đúng! Ta nay đã mất bản ngã rồi, ngươi có biết không?..."

Đây cũng là phép" tọa vong" để mà thực hiện sự huyền đồng với bản thể của Đạo và đó cũng là cứu cánh của Trang học: hễ" đồng" với cái Sống chung của Vũ Trụ vạn vật thì sẽ không còn thương ghét riêng tư, sẽ không còn tham muốn đèo bòng những Tánh Phận ngoài mình nữa. Cho nên mới nói rằng" đồng tắc vô hiếu dã" (10)

Đạo học, theo Trang tử, không phải chỉ là một lối triết lý suông của lý trí, mà là một cuộc thực hiện hay thực nghiệm bản thân về Chân- Lý. Lời nói của Nhan- Hồi trong câu chuyện" tọa vong" trên đây có nghĩa là Hồi đã được cái Đạo bên trong bằng phép" truất- phế thông minh" và" bỏ lý trí". Nên để ý phân biệt điều này: bỏ sự hiểu biết không phải là khuyên ta đừng hiểu biết. Có hai trình độ hiểu biết: biết cái biết thông thường, cái biết của giới nhị nguyên, cái biết trong vòng tương đối của thị phi, thiện ác và biết về cái lẽ" bất khả tri", biết về bản thể, tức là cái biết về Tuyệt đối. Cái biết thông thường của lý trí, của giới nhị nguyên về thị phi, thiện ác đâu phải là không cần, trong khi ta vẫn còn hoạt động trong vòng" sắc tướng", nhưng, khi muốn nắm được Đạo, ta cần phải vượt lên khỏi nó. Trang tử gọi cái phép" vượt lên" ấy bằng một chữ" Vong", nghĩa là " Quên". ông nói:" Trí vong thị phi, tâm chi thích dã". Người được Đạo, không phải là người không biết thị phi, mà là người đã vượt lên trên cả thị phi. Không biết thị phi, với vượt lên thị phi là hai điều khác nhau xa. Cái" không biết" (bất tri) của đứa hài nhi, với cái" không biết" của bậc đạt Đạo cũng khác nhau rất xa vậy. Cái" không biết" ấy, mà Lão tử gọi là" Xích tử chi tâm" đừng có hiểu lầm đó là tâm trạng hỗn độn của đứa trẻ sơ sinh. Cho nên không nên hiểu cho đó là cái học" ngu dân".

Bởi không nhận thấy rõ ràng sự phân biệt đó mà phần đông học giả chuyên về Trang học mới đề xướng thuyết" phục cổ" như ở Thiên Đạo Chích trong sách Trang tử (Xem Trang tử tinh- hoa) .

Cái tri thức thông thường về sắc giới không làm sao hiểu được chân lý tuyệt đối, vì vậy Trang tử đề xướng sự" khử- tri" và" phế bỏ thông minh".

Ở thiên Thiên Địa có đoạn:" Hoàng đế đi chơi đến phía Bắc Xích Thủy, lên gò Côn- lôn, trông về hướng Nam tìm đường trở về, thì bỏ rơi ngọc Huyền- châu. Sai Trí đi tìm, nhưng không tìm ra. Sai Ly- Châu (rất tinh con mắt) đi tìm, nhưng cũng không tìm ra. Sai Khiết- Cờu (người có tài hùng biện) đi tìm, nhưng cũng tìm không ra. Bèn sai Tượng- Võng. Tượng- Võng tìm ra. Hoàng đế nói: Lạ thay, chỉ có Tượng Võng mới tìm ra được ngọc Huyền- châu sao!"

Tượng- Võng là cái "có hình mà thực ra không có hình" tức là ám chỉ cái" Tâm hư không" trừu tượng siêu hình.

Cũng không thể dùng đến sách vở kinh điển mà tìm được Đạo, vì theo Trang tử, đó cũng chỉ là những" cặn bã của cá nhân" (11) mà thôi.

Lý luận, biện thuyết đều vô ích cả, nó chỉ làm cho lòng ta thêm tăm tối, cho thần minh mờ ám.

" Nhiễm Cầu hỏi Trọng Ni:

Có thể nào biết được cái có trước Trời Đất không?

Trọng Ni nói: Được! Xưa cũng như bây giờ (12)

Nhiễm Cầu rút lui, không hỏi nữa.

Qua ngày hôm sau, lại ra mắt mà rằng:

Hôm trước tôi hỏi: có thể nào biết được cái có trước Trời Đất chăng? Thì thầy dạy rằng: Được. Xưa cũng như nay. Trước kia, tôi tưởng là tôi đã hiểu, nhưng hôm nay thì lại cảm thấy mù mịt. Dám xin hỏi ý Thầy nói như thế nào?

Trọng Ni nói: Hôm trước ngươi hiểu rõ là vì đã dùng đến cái thần minh mà nghe. Nay lại cảm thấy mịt mù là vì đã dùng đến cái không phải thần minh mà cầu hiểu. (Trí Bắc Du)

Cái mà Trang tử gọi" Thần" là ám chỉ cái khiếu biết tự nhiên (một thứ trực giác phát tự cái tâm" hư") , cho nên mới hiểu rõ liền. Về sau, vì dùng cái lý luận giả tạo chấp nối của lý trí, nên lòng thông cảm tự nhiên của trực giác mờ đi. " Học giả, học kỳ sở bất năng học (...) ; biện giả, biện kỳ sở bất năng biện" (13) . Cái học mà Trang tử khuyên ta là" cái học mà không sao học được"; còn có biện luận thì" hãy biện luận cái không sao biện luận được". Đó là cái học

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net