Tuyết trắng mùa đông (1)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng



Lần đầu tiên trong suốt mấy trăm năm qua, Sacerdonito - ả tư tế cựu giáo đã quay trở lại phương bắc, mang theo cái chết và nhấn chìm cả kinh đô Macedonica trong màn sương đỏ. Trẻ con cũng như người già, nông dân cũng như quý tộc, tất thảy đều không dám đặt chân ra khỏi nhà suốt nhiều ngày liền. Họ đón lễ Byram – lễ hội của ánh sáng và phúc lành mùa đông – sau những cánh cửa đóng im lìm. Run rẩy. Sợ hãi. Đó là tất cả những gì ngự trị ở thành Macedonica này, kể từ khi Sacerdonito thảm sát hơn hai mươi người trong đoàn áp giải, rồi bắt đi nữ tu Aisha ngay trước điện thờ Mauna linh thiêng.

Có lẽ ả muốn tìm vật tế thần. Và chẳng ai ngu ngốc đến độ dùng mạng mình để thành toàn cho ả. Nhất là đối với những người đã tận mắt chứng kiến cảnh ả moi tim hiệp sĩ nhà Estonia mà chẳng buồn liếc mắt để tâm đến vòng vây lính tráng cùng đội Chó Đêm đương vây quanh. Cần phải biết rằng trong suốt hơn hai trăm năm Tân giáo thống trị phương bắc, thì đối với các tín đồ của nó, Sacerdonito cũng như bất kỳ câu chuyện nào xoay quanh quyền năng lẫn phép thuật nào bắt nguồn từ Cựu giáo đều chỉ là những thuyền thuyết huyễn hoặc không hơn không kém. Các tu sĩ Tân giáo, bằng nhiều phương cách truyền đạo khác nhau, đã dẫn dắt tín đồ đi đến đức tin tuyệt đối dành cho việc cầu nguyện cùng giáo lý mới. Một trong số giáo lý đó là phủ nhận toàn bộ lễ nghi, những phép bí thuật và tư tế của Cựu giáo. Thậm chí, họ còn đồng nhất Cựu giáo với tà giáo phù thủy. Hiển nhiên, với một đức tin được khuyến khích cũng như truyền qua mỗi thế hệ đó mà đại đa số cư dân phương bắc đều xem Sacerdonito – nữ tư tế cuối cùng - là hiện thân của quỷ dữ, dù không phải ai cũng đã gặp qua người phụ nữ ấy. Người ta lưu truyền bằng miệng hoặc cũng có khi tự thêu dệt lên những câu chuyện ly kỳ lẫn rùng rợn khác nhau về Sacerdonito, tỉ dụ như ả thích dùng máu người để tế lễ hơn là rượu hay ả thường xuất hiện trong hình dạng một mụ già rách rưới chẳng hạn. Đi khắp phương bắc của lục địa Aurian này, bất cứ ai cũng có thể nghe được hàng tá câu chuyện như vậy, với nhiều tình tiết cùng mô tả về nữ tư tế Cựu giáo. Chúng phổ biến đến nỗi chẳng còn người nào, ngay cả đứa trẻ con, tin rằng chúng có thật. Không ai cả, cho đến khi màn sương đỏ lan đến kinh đô Macedonica và Sacerdonito hiện hình từ đó, để rồi thực hiện những phép thuật giết người. Sự xuất hiện của ả khiến người ta vừa hiếu kỳ vừa run sợ, đến độ chẳng còn để tâm nhiều đến đội quân Fleur de Lys hay buổi hành hình hụt của nữ tu Aisha. Và thế là phần lớn những cuộc tán gẫu của cánh đàn ông trong các quán rượu, dù có ảm đạm hơn rất nhiều so với ngày thường, giờ dường như lại chỉ xoay quanh việc bàn tán về số phận của kẻ tội nhân bị ả tư tế Cựu giáo kia bắt đi. Hẳn nữ tu xấu số kia sẽ trờ thành vật tế thần mừng lễ Byram của ả, người ta gật gù kết luận như vậy. Ấy là kết cục xứng đáng và đỡ đau đớn hơn dành cho Aisha, bằng không thì dù có toàn mạng trở về, nàng ta cũng sẽ không sống nổi trước những đòn trừng phạt từ thứ phi Rukasa.

Vị cung phi của nhà Estonia đón nhận tin về Sacerdonito và vụ bắt cóc cùng một lúc. Bà ta đã ngã quỵ khi nhìn thấy thi thể không toàn vẹn của em trai mình, rồi sau đó liên tục những tốp lính cả từ hoàng cũng lẫn nhà Estonia đều được lệnh truy lùng bằng được ả tư tế cũng như nữ tu Aisha. Đầu của họ đều được treo thưởng rất cao, thậm chí còn cao hơn cả giá bắt sống những ba nghìn đồng vàng.

"Đầu của ta thật đáng giá." Aisha ngồi trong xe ngựa, nàng thều thào nói với Murad như vậy khi nghe thấy ngôn sứ lớn tiếng rao giữa chợ tin tức từ Macedonica.

Họ chỉ vừa đặt chân đến thị trấn xa xôi này sau năm ngày đường không ngừng nghỉ ngoại trừ khi phải dừng lại để đổi ngựa. Và dường như các ngôn sứ cùng lính tráng của nhà Estonia cùng lũ chó săn cũng không để lãng phí thời gian. Tin tức về nữ tư tế Cựu giáo lẫn phạm nhân mất tích, cả Fleur de lys có lẽ lúc này đều đang được truyền đi khắp bảy lãnh địa Thrace. Điều đó khiến Aisha lo lắng đôi chút, dù nàng vẫn cố làm ra vẻ bình tĩnh bằng một câu cảm thán như vậy. Ở phía đối diện với nàng, anh lính trẻ tuổi chỉ hơi ngước nhìn một cái lấy lệ rồi lại chăm chú vào việc khắc gỗ của mình. Tiếng bánh xe lăn lọc cọc trên con đường mòn trải sỏi dẫn ra khỏi khu chợ đông đúc là âm thanh rõ ràng nhất mà Aisha nghe thấy.

"Anh lập gia đình chưa?" Nàng thả rèm vải che kín cửa sổ của xe và tiếp tục gợi chuyện.

"Thần có một đứa cháu, thưa Người. Nó là con của anh trai thần." Murad lưỡng lự đôi chút, rồi anh ta đáp lại ngắn gọn. Dĩ nhiên, người thanh niên không có ý định giải thích kỹ hơn.

"Ta nghĩ rằng mình sẽ chết." Nàng nhẩn nha, hơi nhích người ngồi thẳng lại để vết thương đang nóng bừng phía sau lưng không cọ vào tấm ván gỗ. "Nếu ta chết, anh có thể đem đầu của ta đi lĩnh thưởng. Mười lăm ngàn đồng vàng sẽ đủ cho anh và cháu của anh sống sung túc đến cuối đời."

Cỗ xe đột ngột xóc nảy lên vì viên sỏi nào đó trên đường khiến mũi dao sắc lẻm của Murad lệch đi. Anh ta đang khắc hình một con búp bê và nhát dao ngoài ý muốn đó đã kéo thành vệt trên má nó, nom vừa như dòng nước mắt lại vừa như vết sẹo xấu xí.

"Thần không hề cứu người." Murad nhìn khúc gỗ chỉ vừa tượng hình người trên tay một cái, anh ta toan vứt nó ra ngoài nhưng rồi lại đổi ý mà tiếp tục khắc. "Bà ta mới là người làm việc đó, nếu người muốn ban thưởng. Dù thần không rõ vì lý do của bà ta."

Bà ta, Murad đã gọi Sacerdonito như vậy trong suốt chuyến đi. Mỗi khi anh ta buộc phải đề cập đến nữ tư tế. Qua thái độ dè chừng lẫn xa cách của anh ta, Aisha có thể hiểu được vì sao anh ta lại gọi như vậy, bởi nàng cũng chẳng khác là bao. Với những tín đồ Tân giáo phương Bắc như họ, người phụ nữ kia giống một ẩn số. Mọi việc bà ta làm, mọi lời nói bà ta thốt ra, tất thảy đều khó hiểu và phảng phất sự nguy hiểm. Tuy nhiên, điểm không giống nhau giữa Aisha và Murad là nàng chọn tin tưởng vào bà ta. Lòng tin ấy dẫu bắt nguồn từ những điều thật mơ hồ, nhưng nàng vẫn chấp thuận để nó dẫn lối. Sacerdonito đã ở bên nàng suốt tám năm, như một người bạn, đồng thời cũng như một người thầy. Bà dạy cho nàng rất nhiều điều bằng học vấn uyên bác lẫn sự sáng suốt chẳng hề thua kém bất cứ học giả hay hiền triết nào. Và qua những lời dạy đó, nàng thấy được rằng bà không giống với những gì người ta đồn đại.

"Anh hiểu ta muốn nói gì đúng không?" Nàng hỏi. "Ta ước mình có thể ban tặng cho anh, cũng như những người bạn của anh và gia đình họ nhiều hơn chỗ đó."

Một lần nữa Murad giữ im lặng. Nét bối rối hiện ra theo từng cú nhích mũi dao run nhẹ khi anh ta đẽo đến cánh tay của con búp bê. Aisha trút tiếng thở dài, toàn thân nàng vẫn vương lại hơi máu tanh trộn cùng mùi mồ hôi, nhưng giờ thì chúng không còn quá quan trọng nữa. Mà đúng hơn thì nếu so với vết thương đang bắt đầu mưng mủ, dính bết vào lớp áo vải thô và cơn đau buốt hành hạ nàng suốt đêm ngày thì chẳng có gì quan trọng cả.

"Anh trai của thần từng là lính Fleur de lys dưới thời nữ hoàng." Đột nhiên, Murad nói. "Anh ấy là niềm tự hào của cả gia đình, cho đến khi chính biến xảy ra. Fleur de lys biến mất và anh trai của thần cũng vậy. Người biết chuyện gì xảy ra tiếp theo rồi đấy, khi nhiếp chính vương truy tìm Fleur de lys."

"Ta nhớ rằng có rất nhiều người bị tống giam."

"Còn tệ hơn thế, nếu người bước ra khỏi thành Macedonica. Bất cứ ai có quan hệ với Fleur de lys đều bị tra khảo, phần lớn họ đều chết vì không chịu nổi hình phạt. Bố mẹ và chị dâu của thần cũng không phải ngoại lệ."

Đến đây, Aisha nghẹn lời. Nàng không biết phải nói gì khi nghe Murad thuật lại phần ký ức đau buồn ấy bằng cái giọng đều đều, như một người đang kể câu chuyện của kẻ khác. Murad vẫn ra vẻ chăm chú vào khúc gỗ trên tay trong khi tiếp tục kể. Vào ngày đám lính ập đến làng bắt bớ, may mắn sao anh và đứa cháu không có mặt ở đó. Họ thoát nạn vì tối hôm trước đã giành phần việc đi bán trái cây thay cho người cha già cả...

"Thần và những người khác đã trốn đến Aras. Đó là nơi duy nhất an toàn ở Vespero này." Murad nhún vai. Im lặng đôi chút, rồi bỗng nhiên anh ta ngẩng đầu và nhìn Aisha.

"Vậy tại sao anh lại cứu ta? Anh đâu phải..." Nàng kìm lại không thốt ra hết câu.

"Thần không phải là lính Fleur de lys. Người muốn nói như vậy?"

Phải. Aisha thầm nghĩ. Những người cứu nàng, những người đã đổ máu và đánh đổi mạng sống để cứu nàng không phải Fleur de lys. Không một ai trong số họ là Fleur de lys. Họ chẳng là ai cả, ngoài những người khoác lên mình chiếc áo choàng trắng. Nàng nhận ra điều đó qua cách họ chiến đấu, qua cánh tay trống đi hình xăm. Tuy nhiên, nàng lảng tránh câu hỏi của Murad, hoặc có thể nàng lảng tránh sự thật lẫn nỗi thất vọng của bản thân. Người thanh niên cũng không nói gì thêm.

Aisha lại vén rèm và nhìn ra phía bên ngoài, đấy là cách nàng khỏa lấp đi sự bối rối lẫn không khí nặng nề trong xe. Trước mắt nàng giờ hiện ra khung cảnh thật lạ lẫm. Không còn thành quách cung điện xa hoa, cũng không còn những ngọn tháp tráng lệ hay thương nhân cùng quý tộc đi lại đông đúc. Tất thảy đều được thay thế bằng cảnh trí tiêu điều của mùa đông và một màu xam xám âm u. Con đường chạy về phương nam mà nàng đang đi qua vốn xuyên qua cánh rừng, giờ chỉ độc những thân cây khẳng khiu. Tuyết mỏng đầu mùa tung bay lả tả, rồi đáp xuống mặt đất cũng như trên cành khô trụi lá mọc tua tủa giăng ngang bầu trời, phủ thành lớp trắng xốp tựa muối, nằm lẫn trong màu đen trầm của vỏ cây cùng sỏi đá. Khung cảnh ấy đẹp hơn, nhưng cũng ảm đạm hơn cảnh mùa đông ở thành Macedonica – nơi nàng đã sinh ra và lớn lên. Aisha nhìn những bông tuyết, nàng khẽ đưa tay lên chạm vào chiếc nhẫn đang đeo trên cổ. Kail đã tặng nó cho nàng khi chàng ngỏ lời cầu hôn. Người thiếu nữ tháo sợi dây lồng qua nhẫn xuống, nắm gọn nó trong lòng bàn tay rồi đặt vào mà vuốt ve. Đầu ngón tay cứng đờ vì cái lạnh của nàng đưa theo những nét chạm khắc tinh xảo hình đầu sói tuyết của nó, đó là linh vật và cũng là biểu tượng cho dòng máu cao quý của các thân vương nhà Volga... Nàng nắm chặt nó trong lòng bàn tay, đặt về phía ngực trái, đôi mắt nàng hướng về phương bắc. Hẳn lúc này xứ Negero cũng đang chìm trong tuyết lạnh mùa đông, nàng biết vậy, nhưng còn chàng thì sao? Trái tim nàng thắt lại, rời khỏi Macedonica đồng nghĩa với việc nàng chẳng thể nghe ngóng được thêm bất cứ điều gì về chàng. Liệu chàng sẽ phản ứng ra sao khi hay tin nàng đã bỏ trốn? Cả những chuyện xảy đến với nàng trong suốt thời gian qua? Và còn lời hẹn mùa xuân nữa.

"Murad này," Nàng vẫn nhìn ra ngoài cửa sổ, lơ đãng cất lời. "Anh có nghe được tin gì từ phương bắc không?"

Người thanh niên nhìn nàng một cách khó hiểu. Dù anh ta chẳng biết nàng đang suy nghĩ gì trong đầu, nhưng cái nhìn đó vẫn khiến nàng chột dạ.

"Chị gái của người, công nương Carmel đã hạ sinh cho thân vương Hector một bé trai kháu khỉnh." Murad trả lời, đúng hơn là anh ta thuật lại những gì được nghe từ miệng những thương nhân phương bắc. Kỳ thực thì đám nhà buôn cũng còn nói thêm rất nhiều điều nữa, tỷ dụ như việc thân vương Kail đã thắng trận ở Pillar và bắt sống được thủ lĩnh của bọn man tộc Cadiz. Thắng lợi ấy khiến hoàng đế Argo già nua rất mực vui mừng, nhờ vậy mà đức ngài Kail đã được tuyên triệu đến vương đô để đảm nhận chức vụ trong Hội đồng cơ mật tối cao, thế vào chiếc ghế trống vốn thuộc về đức ngài Aleksha. Thậm chí người ta còn đồn đoán rằng hoàng đế già sẽ chọn ngài Kail làm người kế vị vào một ngày không xa. Tuy nhiên, đấy dù sao cũng là những chuyện đang diễn ra ở một nơi xa tít tắp về phương bắc và vì vậy mà Murad chỉ lắng nghe để biết, anh ta không để tâm nhiều đến thân vương Kail, cũng như cho rằng nữ tu cần nắm được tin tức dư thừa gì ngoài thông tin về chị gái của người – công nương Carmel.

"Ta mừng cho chị ấy và đức ngài Hector. Họ đã rất đau buồn sau cái chết của đứa con gái đầu lòng." Aisha thở phào nhẹ nhõm khi nghe Murad nói, đấy là một tin tốt.

Dù không hề có ý hỏi về người chị Carmel của mình, nhưng Aisha vẫn thấy vui mừng trước tin tức tốt lành ấy. Nó giúp nàng bớt bồn chồn hơn và cũng tạm nguôi ngoai phần nào nhớ nhung dành cho Kail. Carmel, cũng giống như anh Timur, đều không quá thân thiết với nàng vì cách biệt tuổi tác. Ba năm sau chính biến, chị đã chấp nhận kết hôn với thân vương Hector – một trong những người anh cùng cha khác mẹ của Kail. Đấy có lẽ là cuộc hôn nhân duy nhất được kết thành từ sự tự nguyện. Khi còn ở điện thờ, thỉnh thoảng nàng vẫn nghe được tin về chị Carmel. So với chị Emilia hay chị Sharone, những người đã chết vì bệnh tật hoặc trầm mình vào biển cả lạnh lẽo, Carmel may mắn hơn nhiều. Và nàng mong rằng vận may của chị cũng sẽ đến với mình.

*

* *


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Net